tôi. Đợt đầu tiên, chúng tôi gửi sáu phi công thực tập đến Anh để
huấn luyện vào tháng 8/1968, bảy tháng sau tuyên bố rút quân.
Vào tháng 9/1970 chúng tôi có một phi đội gồm 16 máy bay
chiến đấu (Hawker Hunters) hoạt động ở Singapore.
Người Israel đã giúp đỡ chúng tôi hoạch định việc xây dựng
hải quân và người New Zealand huấn luyện các thủy thủ cho đội
thuyền tuần tiễu nhanh của chúng tôi. Hai đội tàu chiến ba
thuyền, có khả năng tác chiến trong chưa đầy hai năm. Sau đó
chúng tôi phát triển loại pháo hạm tên lửa.
Người Israel không chỉ có khả năng truyền đạt những kỹ
năng quân sự mà còn có khả năng phổ biến lý thuyết huấn
luyện; những phương pháp của họ khác hẳn với phương pháp
của người Anh vốn xây dựng SIR I và II theo cách thức từng
bước, huấn luyện quân đoàn sĩ quan từ những chỉ huy trung đội
đến chỉ huy đại đội và cuối cùng, sau 15 hoặc 20 năm thành
những trung tá chỉ huy tiểu đoàn. Người Israel nhấn mạnh ngay
từ buổi đầu rằng các sĩ quan của chúng tôi học và tiếp quản việc
huấn luyện của họ càng sớm càng tốt. Không giống như người
Mỹ, dưới thời tổng thống Kennedy, trong đợt đầu đã gửi từ 3.000
đến 6.000 “cố vấn” giúp Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô
Đình Diệm xây dựng quân đội miền Nam Việt Nam, người Israel
chỉ gửi đến cho chúng tôi 18 sĩ quan. Mỗi việc họ làm đều được
một người Singapore cộng tác làm theo, từ những chỉ huy trung
đội, chỉ huy đại đội, đến tổng tham mưu trưởng. Chúng tôi
tuyển chọn trong số những sĩ quan cảnh sát và sĩ quan quân
đoàn tình nguyện Singapore cũ từ thời thuộc Anh – những
người có một ít kinh nghiệm về quân sự hay bán quân sự. Một
số người là công chức nhà nước, số khác từ khu vực tư nhân.
Chúng tôi tạo cơ hội để họ phục vụ chuyên nghiệp trong quân
đội. Quân đội Anh chú trọng vào việc bảo trì quân trang quân