thuyết phục họ tiếp quản xưởng tàu Keppel dân dụng để tập cho
họ làm quen với các điều kiện của chúng tôi.
Thủ tướng Úc, Harold Holt và thủ tướng New Zealand, Keith
Holyoake, cùng đánh điện cảnh báo tôi rằng việc rút giảm phần
lớn quân lực Anh đang được xem xét và điều này sẽ dẫn đến sự
tháo bỏ và giải thể hệ thống các thỏa ước phòng thủ của Khối
Thịnh vượng chung.
Các chỉ huy quân đội Anh tại Singapore không mong muốn
có một cuộc rút quân vội vã. Tháng 5, một tháng sau chuyến
viếng thăm Healey, Keng Swee cùng tôi dùng bữa tối với Sir
Michael Carver, Tổng tư lệnh Anh tại Viễn Đông. Carver hầu như
rất vững tâm. Ông ta nói vai trò chính yếu của lực lượng quốc
phòng Singapore là ngăn chặn bạo động từ bên trong và bên
ngoài. Trong tình hình phải đương đầu với các thế lực thù địch
kéo dài, chúng tôi sẽ phải dựa vào lực lượng đồng minh. Thái độ
của ông ta làm tôi tin rằng ông ta hy vọng quân đội Anh sẽ ở lại
Singapore trong một thời gian nữa.
E rằng các bậc thầy chính trị của Carver suy tính khác hoặc
họ bị áp lực buộc phải thực hiện những điều họ không thể nghĩ
đến, tôi đã viết thư cho Harold Wilson vào ngày 26/5 rằng bất
cứ cuộc đàm phán nào về “sự viện trợ có ý nghĩa” đều có những
ẩn ý đáng ngại. Nguy cơ bất ổn định về mặt kinh tế chỉ là thứ
yếu so với nguy cơ tổn thất lòng tin nghiêm trọng khi người ta
biết rằng Anh quyết định rút quân vào giữa thập niên 70.
Wilson gởi thư phúc đáp trấn an và sau đó mời tôi đến London
để mở đầu cho một cuộc thương thảo.
Tháng 6/1967, khi Keng Swee và tôi gặp Healey, ông ta cung
cấp cho chúng tôi một danh sách chi tiết các đợt rút quân tới
ngày 31/3/1968 và sự rút quân kéo dài từ năm 1968 tới 1971.