thể đã thuyết phục được các nhà lập pháp nhưng về mặt cảm
tính, nhiều người trong bọn họ khó có thể chấp nhận vấn đề.
Một vấn đề khác mà Reagan đưa ra trong suốt các cuộc hội
đàm của chúng tôi là vấn đề Philippines. Tổng thống Marcos đã
trải qua một thời kỳ khó khăn kể từ khi vị lãnh đạo đối lập đã bị
trục xuất, Benigno Aquino, bị bắn chết ở phi trường Manila lúc
ông ta từ Mỹ về hồi tháng 8/1983. Marcos đã từng là người bạn
tốt và người ủng hộ đường lối chính trị của Reagan. Trước đây
khi Shultz thảo luận vấn đề này với tôi, tôi đáp Marcos bây giờ là
vấn đề chứ không phải là giải pháp. Ông ta yêu cầu tôi nói thẳng
với Reagan vì ông này đang lấy làm buồn trước viễn cảnh phải
từ bỏ một người bạn cũ. Vì thế cố gắng hết sức tế nhị như tôi có
thể làm được lúc đó, tôi mô tả cho Reagan rằng Marcos đã
chuyển từ một thành viên tham gia chống cộng trẻ tuổi của
những năm 60 để trở thành một kẻ chuyên quyền già nua tự
mãn như thế nào. Ông ta đã cho phép vợ và những người bạn
chí thân của mình vơ vét bòn rút đất nước mình, bằng một đế
chế độc quyền tinh vi và đã đưa chính phủ ông ta cầm quyền
vào tình trạng nợ ngập đầu. Điểm số tài chính của Philippines
và chính phủ của ông ta đã tụt dốc. Reagan không mấy hài lòng
khi nghe những lời đánh giá này. Tôi đề nghị vấn đề là làm thế
nào tìm một con đường gọn gàng và êm đẹp để Marcos rời khỏi
chính phủ, và có ai đó lập một chính quyền mới để có thể dọn
sạch những mớ lộn xộn này. Ông ta quyết định cử một phái viên
để trình bày mối bận tâm của Hoa Kỳ đối với Marcos trong tình
huống tồi tệ đó.
Người Phillipines nổi dậy vào ngày 15/2/1986, sau khi việc
Tổng thống Marcos tái đắc cử bị nghi vấn có sự gian lận. Đại sứ
Mỹ, Stapleton Roy được chỉ thị thăm dò quan điểm của tôi. Tôi
cho rằng Hoa Kỳ phải xử lý với Marcos cho dù ông ta được nhậm