cho tôi các bản sơ yếu lý lịch của họ, họ liệt kê trung thực các
kinh nghiệm của họ trong suốt thời kỳ chiến tranh – như chiến
đấu trong các chiến dịch ở Stalingrat hay ở Bỉ, nơi họ đã bị người
Liên Xô, người Mỹ hay người Anh bắt làm tù binh, cùng cấp bậc
của họ cũng như các huy chương mà họ đạt được. Nhưng các sơ
yếu lý lịch của người Nhật lại để trống không khai gì trong
khoảng thời gian từ năm 1937 đến 1945; cứ như những năm
tháng này không tồn tại vậy. Đó là dấu hiệu chứng tỏ rằng họ
không muốn nói về chúng. Không ngạc nhiên gì nữa, một bức
màn ngăn cách giữa người Nhật và những người mà họ có quan
hệ làm ăn, đang tạo nên một sự ngờ vực và không tin tưởng. Tôi
đề nghị người Nhật phải học hỏi phương cách người Đức giáo
dục thế hệ tiếp theo về lịch sử của họ để không lặp lại các lỗi lầm
tương tự. Ông Kaifu nói rằng ông ta được khuyến khích bởi
những ý kiến tôi đưa ra và nhấn mạnh rằng nước Nhật đang
thay đổi. Ông ta nói rằng: ông ta là Thủ tướng đầu tiên sau chiến
tranh không xuất thân từ nền tảng quân đội. Vào năm 1945,
ông ta vẫn còn là một sinh viên trẻ; trong những năm 1960, ông
tham gia vào quá trình dân chủ hóa đất nước. Ông ta muốn xem
xét đến nhiệm vụ giáo dục lớp trẻ về sự thật của Thế chiến thứ
hai và sẽ duyệt lại các sách giáo khoa ở trường học. Ông ta
không tại vị đủ lâu để theo đuổi việc này trước khi ông Kiichi
Miyazawa lên kế vị.
Thấp và có vẻ hoạt bát, với một vẻ dò hỏi biểu lộ trên khuôn
mặt tròn, cặp lông mày rậm của ông Miyazawa nhăn lại mỗi khi
ông ta suy nghĩ về một vấn đề. Ông ta mím môi trước khi phát
biểu các suy nghĩ một cách dè chừng và cẩn thận. Ông ta đập
vào mắt tôi như là một học giả hơn là một chính trị gia và lẽ ra
ông đã có thể dễ dàng ở lại làm một giáo sư ở Đại học Todai, nơi
ông đã tốt nghiệp nếu ông chọn một nghề trong giới học sĩ.