Anh vẫn tiếp tục ở lại và chúng tôi với tư cách là một chính
quyền đảng Bảo thủ sẽ ngăn chặn cuộc rút quân”. Ông ta nói
thêm rằng ông “đã ấn tượng sâu sắc bởi những thành tựu thực
sự xuất sắc mà chúng tôi đã mang lại cho hòn đảo này… Nền
tảng của chúng chính là niềm tin vào tương lai, hòa bình và sự
ổn định trong toàn khu vực.” Tôi hy vọng các chỉ huy quân đội
Anh sẽ ghi nhận những lời này và không quá vội vã rút quân.
Năm tháng sau, vào tháng 6/1970, đảng Bảo thủ thắng trong
cuộc tổng tuyển cử và Edward Heath trở thành thủ tướng. Cũng
trong tháng đó, Bộ trưởng Quốc phòng, Peter Carrington, viếng
thăm Singapore để thông báo rằng việc rút quân sẽ tiến hành
theo hoạch định, nhưng Anh vẫn để một phần lực lượng lại
Singapore trên thế cân bằng với Úc và New Zealand. Về mặt cá
nhân, Carrington bảo tôi rằng Anh sẽ không để lại bất kỳ đội
máy bay vận chuyển hay chiến đấu nào. Sẽ chỉ có 4 máy bay
giám sát Nimrod, một phi đội trực thăng Whirlwind và một tiểu
đoàn sẽ đóng quân tại Nee Soon, một trong những doanh trại
của họ. Sẽ có 5 tàu chiến, tàu khu trục tại các vị trí khắp vùng
Đông Suez và Hiệp ước Phòng thủ Anh – Malaysia sẽ được thay
thế bởi một “hiệp ước chính trị mang tính chất thương nghị”.
Anh nói rõ ràng họ muốn tham gia, không phải với tư cách
người lãnh đạo, mà với tư cách một thành viên “trên cơ sở bình
đẳng” trong Hiệp ước Phòng thủ năm Quốc gia đã được hoạch
định.
Giữa tháng 4/1971, năm thủ tướng đã gặp nhau tại London
để thông qua lần cuối các hiệp ước chính trị thay thế AMDA.
Những lời lẽ mang tính quyết định nhất: “Trong trường hợp bất
kỳ hình thức tấn công vũ trang nào được tổ chức hay được hỗ
trợ từ bên ngoài, hoặc mối đe dọa của một cuộc tấn công như
thế chống lại Malaysia và Singapore, các chính phủ ngay lập tức