trên chuyến bay. Mối quan hệ song phương về quốc phòng giữa
Singapore và Malaysia đã cải thiện một cách đáng kể sau sự kiện
này.
Thật ra thì vào tháng 3/1968, Razak đã nói với Kim San và
Keng Swee rằng nền an ninh của hai quốc gia là không thể tách
rời, rằng Malaysia không thể gánh nổi khoản phí tổn quá nặng
nề cho quân đội và Singapore, một hòn đảo nhỏ bé và dễ bị tấn
công bởi những cuộc đột kích, nên tập trung vào khả năng
phòng không trong khi Malaysia với bờ biển dài nên tập trung
vào lực lượng hải quân. Bằng cách này, chúng ta sẽ hỗ trợ bổ
sung lẫn nhau. “Là hai lãnh thổ riêng biệt, chúng ta nói chuyện
với nhau trên tinh thần bình đẳng. Điểm nào chúng ta có thể
nhất trí, chúng ta cùng hợp tác. Nếu không nhất trí, tốt thôi,
chúng ta sẽ chờ một thời gian nữa.”
Không lâu sau cuộc bạo loạn ở Kuala Lumpur vào tháng
5/1969, theo sau đó là chính sách nghị hòa của nghị viện
Malaysia, Razak phải đại diện cho Malaysia tại Canberra trong
cuộc họp các thủ tướng năm nước, để bàn về việc bố trí phòng
thủ sau khi Anh rút quân vào năm 1971. Trước khi hội nghị bắt
đầu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Úc bảo tôi rằng Thủ tướng của
ông, John Gorton, sẽ không tham dự cuộc họp. Trong một cuộc
thảo luận riêng, Thứ trưởng Đối ngoại Úc nói Gorton nghi ngờ
khả năng làm chủ tình hình của chính phủ Malaysia, tin rằng
rắc rối về chủng tộc sẽ bùng nổ xa hơn và Singapore sẽ bị “lôi
kéo” vào cuộc xung đột. Gorton hoàn toàn mất niềm tin vào
Malaysia. Ông ta không muốn Úc dính líu vào bất kỳ thỏa ước
phòng thủ nào với Malaysia. Úc chính là những người không vui
nhất đối với việc Anh sẽ rời khỏi khu vực này và họ không muốn
bị đè nặng bởi trách nhiệm đối với vấn đề quốc phòng của
Malaysia và Singapore. Gorton thấy trước thảm họa và e sợ phản