đến thiện chí và sự hợp tác từ phía người Anh để tiến hành cuộc
rút quân với càng ít bất đồng và càng nhiều thiện chí càng tốt
đồng thời không có xưởng quân đội nào bị tháo gỡ toàn bộ như
đã từng xảy ra ở Guinea (Tây Phi) khi quân Pháp rút vào những
năm 1960.
Các sự kiện thay đổi đột ngột đã tăng thêm áp lực với chúng
tôi. Những khó khăn về kinh tế cũng như số người thất nghiệp
sẽ tăng lên. Về mặt quốc phòng, chúng tôi cần một lực lượng
không quân. Làm thế nào chúng tôi có thể xây dựng được một
lực lượng không quân từ đầu và có một đội máy bay chiến đấu
hoạt động ngay vào cuối năm 1971? Khi tôi gặp Healey lần thứ
hai để đề nghị mua một phi đội Hawker Hunter, ông ta sẵn lòng
đồng ý. Ông sẽ còn giúp chúng tôi đào tạo những người có khả
năng sử dụng chúng, một sự thay đổi thái độ hoàn toàn so với
lần tôi gặp ông ta vào tháng 10/1966, không đầy hai năm trước
đây, khi ông ta phất tay về phía chúng tôi, cho rằng chúng tôi có
những ý định “tinh quái”.
Giới truyền thông Anh bày tỏ thái độ thông cảm nhưng nhìn
chung họ bi quan đối với tương lai của Singapore. Singapore sẽ
mất khoảng 20% GDP khi Anh không còn chi trả phí tổn của
quân đội và khi không còn nằm dưới sự bảo vệ của quân đội
Anh, họ thấy rằng tương lai của chúng tôi thật bấp bênh. Chủ
tịch của Daily Mirror Group, Cecil King, có mặt trong cuộc họp
báo khi tôi từ London trở về Singapore vào tháng Giêng. Ông ta
nói với thư ký báo chí của tôi, Alex Josey, rằng ông ta ủng hộ tôi
nhưng tình hình thật vô vọng. Với tình trạng thất nghiệp cao và
nền an ninh không bảo đảm sau cuộc rút quân của Anh, nền
kinh tế chắc chắn sẽ suy thoái. King không phải là người duy
nhất có một cái nhìn bi quan như thế đối với viễn cảnh của
Singapore.