chèo, cách chồm người tới và ngã lui, chỗ đặt chân. Sau khi tập
luyện mỗi tuần hai lần trong ba tuần, tôi được cho lên một chiếc
xuồng thực sự. Vào buổi chiều cho buổi chèo thuyền thực tế lần
thứ hai đã được ấn định sẵn của tôi, một cơn bão tuyết nổi lên
và tôi cho rằng buổi tập bị hủy bỏ. Tôi bị trách mắng nghiêm
khắc. Bảy người nữa và anh trưởng toán đã có mặt nhưng không
thể ra khơi vì thiếu tay chèo thứ tám là tôi. Tôi cho rằng người
Anh hơi điên và rời khỏi Câu lạc bộ Thuyền buồm. Sau này, việc
đạp xe quanh Cambridge đi từ chỗ trọ đến nơi học và từ nơi học
về Fitzwilliam House để ăn uống đã giúp tôi có cơ hội tập luyện
thân thể.
Lớp luật Qualifying One năm đầu tiên thì không đông, chỉ
khoảng 30 sinh viên thay vì 200 như ở London. Phần lớn sinh
viên lên tới đại học là những cựu chiến binh, họ được chiếu cố
đặc biệt để tốt nghiệp trong vòng hai thay vì ba năm, vì thế họ
vào thẳng năm thứ hai. Không như họ, tôi phải học năm thứ
nhất Qualifying One, và phải học ba năm. Các sinh viên người
Anh đang học với tôi đều trẻ, chỉ khoảng 18, 19 tuổi lên thẳng
từ trung học. Tôi đã 23. Có vài người từ Malaya, trong đó có Yong
Pung How, khoảng 20 tuổi và đến từ Kuala Lumpur. (Năm 1990
ông ta trở thành chính án Tòa án tối cao Singapore.) Vì tôi vào
trễ học kỳ đầu tiên, nên Pung How đã sẵn lòng cho tôi mượn bài
vở ghi chép của anh. Chúng thật sạch sẽ, dễ hiểu và là một bảng
tóm tắt thật đầy đủ về vấn đề căn bản mà tôi đã bị thiếu. Chúng
thật hữu ích vì giáo trình của Cambridge có những môn khác
hẳn so với giáo trình năm đầu của tôi ở London. Suốt kỳ nghỉ Lễ
Phục sinh, tôi học gạo những gì mình bị sót và đuổi kịp chương
trình. Tháng 5, khi kỳ thi Qualifying One được tổ chức, tôi đã
chuẩn bị khá đầy đủ. Ba tuần sau, tháng 6, khi kết quả kỳ thi