để bọn gây rối không dám kháng cự. Tôi nói nếu chúng ta có
những đội quân người Gurkha thì tôi chắc chắn không ai dám
thách thức và Lữ đoàn công chính sẽ tan rã, nhưng tôi không
dám chắc những người chống đối kia có e dè những binh lính
Singapore không. Viên sỹ quan nói rằng sẽ chẳng có vấn đề gì
đâu và ra lệnh cho binh sĩ bao vây khu trại với súng có gắn sẵn
lưỡi lê. Đối mặt với cuộc phô diễn lực lượng này, 400 đoàn viên
của Lữ đoàn công chính đã tan rã không chút kháng cự nào. Sau
đó chúng tôi giải tán Lữ đoàn này.
Một lần nữa, họ thành lập ủy ban hành động và yêu cầu một
ủy ban điều tra. Nhưng đó chỉ là những nỗ lực gây đình trệ rất
yếu ớt so với cuộc xách động trong năm 1955 và 1956. Hai yếu
tố đã ngăn chặn họ là: thứ nhất, công luận có thể không đồng
tình nếu họ cố tình gây bạo động khi dân chúng chưa thấy phẫn
nộ vì một chuyện bất mãn nào đó, như chuyện đe dọa đối với
nền giáo dục bằng tiếng Hoa chẳng hạn; và thứ nhì, bạo động có
thể khiến chính phủ có biện pháp an ninh mạnh tay hơn đối với
họ.
Trên mặt trận công nghiệp, tôi e Lim Chin Siong sẽ tổ chức
gây bất ổn với quy mô lớn nên đã cảnh giác trong một cuộc họp
báo rằng chúng ta có thể sẽ đối mặt với một tình trạng lặp lại
của năm 1955–56. Trong năm 1961, có 116 cuộc đình công, 84
cuộc trong số đó đã xảy ra sau khi PAP tách bạch thành hai phái
(ngày 21/7), và trong 15 tháng, từ tháng 7/1961 đến tháng
9/1962, đã có tới 153 cuộc bãi công, một kỷ lục ở Singapore thời
kỳ sau Thế chiến.
Đến lúc đó tôi đang đi đi về về Kuala Lumpur để thảo luận
với Tunku về việc hợp nhất, và trong những dịp tôi trở về bằng
máy bay rồi ngồi xe từ phi trường Paya Lebar về Dinh chính phủ
hoặc nhà riêng, tôi có thể gặp từ sáu tới mười nhóm những