toán anh vào cái đêm đầu tiên anh gặp em, và hắn cất tờ giấy thú tội ấy của
con bé để bảo đảm việc nó phải giữ bí mật và buộc thằng anh của nó hợp
tác.
- Tối đó em đã phá hỏng kế hoạch của chúng bằng bộ áp giáp ấy, nhưng
một trong những thằng anh của con ở đó – cái thằng mà anh bắn – đã cố bò
đến ngựa của hắn và trốn thoát được trong khi anh đưa em vào quán trọ.
- Bertie cố sát hại anh lần nữa, sau khi chúng ta đám cưới bốn ngày. Nhưng
lần này hai thằng mà hắn đã thuê giết anh, lấy tiền xong thì chúng lại muốn
kiếm thêm tiền nữa bằng cách bán anh cho nhóm người bắt lính. Như lời bà
thím anh đã nói.
Jordan nói thêm với giọng mỉa mai:
- Khi người ta ít tiền, khó mà thuê được người tốt.
Chàng thọc hai tay vào túi, rồi nói tiếp:
- Khi anh từ cõi chết quay về cách đây một tuần, Bertie nhắc con ở nhớ
rằng hắn vẫn còn tờ khai thú tội của nó, và hắn dùng tờ giấy này để buộc
thằng anh con ấy phải cố giết cho được anh. Lần ấy nó bắn anh ở phố
Prook Street – đúng vào cái đêm em ngủ trong phòng bà gia sư.
Alexandra kinh ngạc nhìn chàng.
- Sao đêm đó anh không nói cho em biết chuyện có người bắn anh?
- Anh thấy không nên làm cho em hoảng sợ, - Jordan đáp, rồi lắc đầu hậm
hực nói tiếp, - Thực ra không hoàn toàn đúng như thế. Trong thâm tâm anh
cứ nghĩ rằng chính em là người đã bắn phát súng ấy. Nhìn vóc dáng, thằng
bắn anh tối đó giống em. Và vì ngày hôm đó em cứ nằng nặc nói rằng em
rất muốn hủy bỏ cuộc hôn nhân của chúng ta..
Alexandra cắn môi quay mặt khỏi chàng, nhưng Jordan vừa kịp thấy nét
đau đớn và trách móc hiện ra trong mắt nàng. Chàng thọc sâu hai tay vào
túi và nói tiếp:
- Cách đây nhiều hôm, người lao công tên là Nordstrom chết vì số rượu
vang đỏ trong bình rượu ta đã mang theo trong buổi picnic - số rượu mà em
cố nài nỉ anh uống.
Nàng lại quay mắt nhìn vào mặt chàng, và chàng nói tiếp bằng một giọng
tự trách rất gay gắt: