tắc mà cậu chỉ cần học một lần và sử dụng mãi mãi trong mọi tình huống
mà không phải đắn đo suy nghĩ.
Nhưng cần có số liệu chứng minh rằng bộ qui tắc này có tác dụng. Thế là
cậu quyết định làm một phân tích thống kê ghi nhận lại những gì xảy ra
khi cậu áp dụng, hoặc không áp dụng các nguyên tắc của Carnegie. Cậu
cố gắng ân cần và bày tỏ lòng cảm kích với những người xung quanh.
Cậu cố gắng không làm những gì có thể gây ra sự khó chịu nơi người
khác. Không ai biết rằng Warren đang âm thầm lấy họ làm vật thí
nghiệm. Cậu theo dõi phản ứng của họ trước cách cư xử của cậu. Cậu ghi
nhận tất cả các kết quả. Tràn ngập niềm vui, cậu nhận ra rằng các qui tắc
đó phát huy tác dụng tốt.
Giờ đây, cậu đã tìm ra qui tắc của riêng mình, một bộ qui tắc ứng xử hẳn
hoi.
Nhưng chỉ biết các nguyên tắc đó thôi sẽ không giúp ích gì cho bạn. Bạn
phải sống theo các nguyên tắc ấy. Tôi đang nói về một cách sống mới,
Carnegie viết.
Warren bắt đầu thực hành. Cậu thực hành từ những bước nhỏ nhất. Vài
phép ứng xử đến với cậu một cách rất tự nhiên, nhưng rồi cậu nhận ra
rằng bộ qui tắc này không dễ áp dụng hay tự động mà thành thói quen
ứng xử. “Không chỉ trích” nghe qua rất đơn giản, nhưng có nhiều cách
chỉ trích người khác mà bạn không nhận ra rằng mình đang chỉ trích.
Thật khó giấu đi tính khoe khoang cố hữu của con người, hay kìm nén sự
khó chịu, hoặc thể hiện lòng kiên nhẫn. Thừa nhận mình sai cũng không
dễ dàng trong mọi lúc. Thật lòng quan tâm đến mọi người và chân thành
thể hiện sự cảm kích đối với họ là điều khó nhất. Với một người thường
xuyên chìm trong sự thống khổ như Warren thì thật khó lòng để ý đến
người khác, ngoại trừ bản thân mình.
Tuy nhiên, dần dần cậu nhận ra rằng những năm tháng đen tối thời tiểu
học là bằng chứng sống động cho thấy bỏ qua các nguyên tắc của Dale
Carnegie là điều sai lầm. Khi cậu bắt đầu lấy lại căn bản trong trường