Về mặt nào đó thì Howard cảm thấy nhẹ cả người. Ông tự nhiên được
“thoát” khỏi cửa hàng và không bao giờ muốn quay lại đó.
Ông chỉ
lo gia đình mình sẽ bị chết đói thôi. “Đừng lo về chuyện ăn uống,”
Ernest bảo. “Cha sẽ thanh toán các hóa đơn cho các con.”
“Đấy là ông nội của tôi,” Warren nói, “cha sẽ thanh toán các hóa đơn cho
các con.” Không phải Ernest không yêu gia đình mình, “bạn chỉ mong
sao ông năng bày tỏ tình cảm thiêng liêng đó nhiều hơn mà thôi.”
“Anh nghĩ tốt hơn hết là em nên trở về West Point,” Howard bảo vợ, “Ít
nhất ở đó em cũng có ba bữa ăn trong ngày.” Nhưng Leila vẫn ở lại. Cô
quyết đi bộ đến cửa hiệu Robert để thanh toán các hóa đơn chứ không trả
tiền vé xe đi lên đi xuống. Cô bắt đầu bỏ những buổi đi lễ nhà thờ vì
không muốn mất 29 xu tiền công phục vụ tại một quán cà phê cùng thời
gian đó.
Ngoài việc theo dõi sổ sách ở cửa hàng, cô gần như không
đi đâu để bảo đảm rằng Howard được chăm lo chu đáo trong việc ăn
uống.
Một ngày thứ bảy, hai tuần trước sinh nhật lần đầu tiên của Warren, mọi
người xếp hàng dài trong thị trấn, đổ mồ hôi dưới cái nóng 36 độ C, để
đòi lại tiền từ một ngân hàng địa phương đang có dấu hiệu lung lay. Họ
đứng từ sáng cho đến tận 10 giờ đêm để đếm tới đếm lui số người xếp
hàng phía trước và thì thầm cầu nguyện: Lạy chúa, xin cho đến lượt con
thì tiền vẫn còn.
Không phải lời nguyện cầu nào cũng được lắng nghe. Bốn ngân hàng của
bang đã đóng cửa trong tháng đó, bỏ mặc những người đã từng tin tưởng
gửi tiền cho họ. Một trong số bốn ngân hàng đó là ngân hàng nơi
Howard Buffett làm việc, Ngân hàng Liên bang.
Warren nhắc lại
truyền thuyết của gia đình: “Ngày 15 tháng Tám năm 1931, tức hai ngày
sau sinh nhật của tôi, cha tôi đến ngân hàng và họ đã đóng cửa. Ông mất
việc, và tiền của ông cũng nằm trong ngân hàng này. Ông phải nuôi hai
đứa con.
Ông không biết phải làm gì và cũng không có việc gì cho
ông làm.”