chắn có rất nhiều khoản thu nhập có thể đánh thuế. Từ năm
1982 đến năm 1987, chỉ số Dow Jones đã vạch một đường thẳng từ
777 điểm lên đến 2.722 điểm. Nếu các bạn muốn kiếm tiền, ông
nói với các sinh viên trường kinh doanh, “hãy sử dụng cái mũi của
mình và tới Wall Street.” Nhưng ông thì hiếm khi có mặt ở đó.
Hình ảnh của Wall Street đưa nhà dân túy vùng Trung Tây đi vào
giấc ngủ hàng đêm. Khi được một phóng viên hỏi rằng tại sao ông
lại ôm vào người một vấn đề hóc búa của Salomon trong khi Wall
Street đang sa lầy như thế, Buffett không hề do dự trả lời. Ông đã
đặt niềm tin vào một con người: Gutfreund. Ông nói: “Ông ấy là
một người chính trực, xuất sắc và trọng danh dự.”
Buffett luôn phải lòng người khác. Các nhà quan sát nói rằng rõ
ràng là ông đã “yêu” Gutfreund ngay từ cái nhìn đầu tiên. Tuy nhiên
con người từng từ bỏ công việc của một “kẻ kê toa” để thoát ra khỏi
xung đột lợi ích cố hữu với khách hàng của mình không thể lấy
John Gutfreund để che chắn chính mình vì rằng ông ấy sở hữu
một phần của một ngân hàng đầu tư, vốn bị đánh đố với các
xung đột lợi ích của khách hàng của nó. Làm thế nào mà ông lại tự
đưa mình vào một vị trí – rầy rà nhất – trong hội đồng quản trị
của một công ty như thế?
Điều đó dường như là, trong vòng
một cơn hạn hán, niềm thôi thúc kiếm tiền của Buffett một lần
nữa lại tràn ngập những hy vọng bay bổng, những cảm hứng bất tận
và những nguyên tắc cứng rắn của ông. Và, cứ như đã từng xảy ra
trong đời ông, cứ mỗi khi tính hám lợi của ông trỗi dậy thì thế nào
cũng có một rắc rối đi kèm.
Vào lúc Buffett đầu tư vào Salomon, thị trường đang gần tới
điểm bùng nổ thành bi kịch. Trong thư gởi các cổ đông tháng Ba
trước đó, ông nói rằng các nhà quản lý đầu tư đã manh động đến
mức họ đã làm cho “các giáo sĩ Hồi giáo đang xoay tít bình tĩnh trở
lại.” Ông không có một công ty hợp danh nào để mà thanh lý, nhưng