để thu tiền về. Nhưng “rủi ro” nằm ở chữ có thể – xét đến tính
không ổn định – nghĩa là giả thiết đó cho rằng nhà đầu tư có thể
kiên nhẫn chờ đợi. Dĩ nhiên, bất cứ ai vay mượn để đầu tư đều
biết rõ rằng thời gian chờ đợi là một điều rất xa xỉ, vì khoản lãi
vay tăng lên từng ngày. Ngoài ra, việc “gỡ” lại một thương vụ lớn bị
thua đòi hỏi phải có sẵn một nguồn tiền sẵn sàng cho vay ở đâu đó
mà bạn có thể với tới ngay lập tức khi cơ hội đến. Nhưng, để sử dụng
nguồn vốn đó, bạn phải một loại phí gọi là chi phí cơ hội
(opportunity cost).
Larry Hilibrand thua 400 triệu đô la – một số tiền khổng lồ –
vì thực hiện một thương vụ nhắm vào mức chênh lệch lãi suất của
các trái phiếu có bảo đảm bằng tài sản thế chấp. Anh ta tin rằng
mình có thể lấy lại số tiền đã mất nếu công ty cho phép tăng
gấp đôi số tiền cược theo ý anh ta. Buffett đồng ý với Hilibrand
ngay lúc đó và trao cho anh ta số tiền theo đề nghị. Và, thực tế là
Hilibrand đã mang về lợi nhuận qua vụ này.
Các giao dịch viên trái phiếu có một niềm tin hầu như siêu
nhiên ở khả năng của họ. Góc làm việc của họ trên thị trường chứng
khoán ngày càng đông khách và họ thậm chí còn muốn mở ra
nhiều loại hình kinh doanh chứng khoán hơn nữa xoay quanh việc
hưởng chênh lệch giá nhưng ít chắn chắn hơn. Họ dựa vào các mô
hình trên máy tính, được tạo ra từ những phép tính phức tạp, nhưng
luôn luôn nói rằng chúng chỉ mang tính tham khảo. Buffett và
Munger cảm thấy sử dụng các mô hình đó để ra các quyết định
đầu tư cũng giống như lái xe ô tô trên đất liền theo sự điều
khiển từ xa của một chiếc tàu viễn dương trên biển. Tài xế có thể
nghĩ rằng anh ta hoàn toàn tỉnh táo và tập trung, nhưng rồi nhận
ra rằng mọi thứ thật khác khi đường đi bỗng uốn lượn, trơn trợt
dưới mưa hoặc kẹt cứng ở đâu đó.