những kim cương to cỡ viên kẹo See’s và thậm chí có hạt to bằng quả
chanh là chuyện quá dễ dàng đối với họ.
Vâng, đó là tiền của họ, tại sao họ lại không thể làm điều họ
muốn bằng tiền của họ chứ? Nghĩa là tại sao họ không thể “bao
cấp” cho những người khác? Câu trả lời của Buffett là họ nợ xã hội
một số tiền và chính số tiền đó làm cho họ trở nên giàu có. Nếu
họ nghĩ rằng tự họ làm ra tất cả số tài sản đó, họ cứ thử đầu thai
làm một trong năm đứa con của một người đàn bà đói khát, sợ hãi ở
Mali xem nào. Họ hãy nhìn xem chúng giàu có và thành đạt đến bực
nào sau khi được bán đi để làm việc như nô lệ trong các đồn điền
ca-cao ở Bờ Biển Ngà.
Nếu thuế tài sản thừa kế bị bãi bỏ, ông nói, một số người khác
sẽ phải bù vào khoản thiếu hụt đó trong ngân sách nhà nước vì một
số tiền tương ứng như thế phải được bổ sung từ đâu đó để chính
phủ có thể điều hành đất nước.
Suốt nhiều năm liền, học thuyết về chính sách hạ thuế
suất để khuyến khích sản xuất đã được mặc nhiên thừa nhận,
rằng việc cắt giảm thuế sẽ buộc chính phủ phải cắt giảm chi tiêu.
Học thuyết này có lô-gic của nó. Nghĩa là, nếu mọi người đều
sống trong giới hạn mức thu nhập của họ thì tại sao chính phủ lại
không làm được như thế? (Tất nhiên là vào năm 2002, dân chúng
đang lo mua sắm nhà cửa trả góp do lãi suất cực thấp để tránh
việc phải sống trong mức thu nhập của mình). Các tranh luận về
chính sách cắt giảm thuế để khuyến khích sản xuất và đầu tư
vẫn sôi sục sau 20 năm nó tồn tại. Số thuế mà nhà nước thu được
thường không đủ để bù đắp chi tiêu, và thế là chính phủ phải đi vay
mượn để bù đắp vào khoản thiếu hụt đó. Như vậy, học thuyết này
không còn đáng tin cậy nữa. Xóa bỏ thuế tài sản thừa kế cũng có
nghĩa là chính phủ phải tăng mức thuế suất các loại thuế khác
hoặc vay mượn nhiều tiền hơn nữa, và tiền lãi vay, cùng với các