Tất nhiên, đó là quan điểm trước sau như một của ông. Ông cảm
thấy rằng Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ không bao giờ là một quốc
gia của những người lắm tiền nhiều của, một “tầng lớp tự tồn
tại”, không ngừng thâu tóm thêm nhiều của cải và quyền lực.
Và, những người giàu có lại càng trở nên giàu có hơn khi thị
trường chứng khoán tiếp tục cuộc hồi sinh của nó sau Sự kiện 11/9.
Hàng chục quỹ hedge mới ra đời mỗi ngày. Họ kiếm được từ mọi
mức lãi suất do FED công bố, bất kể thấp đến mức nào. Có quá
nhiều người đào bới trong các quyền chọn mua chứng khoán (stock
options) và thu phí từ 2-20% trên số tiền đầu tư của người khác
tại các quỹ đầu tư tư nhân, nên các quỹ hedge và các quỹ của quỹ,
mà các tỉ phú đang xuất hiện ngày càng nhiều. Rất nhiều gia tài
được tạo dựng nhanh chóng từ nền kinh tế mới làm Buffett cảm
thấy rất phiền lòng vì cách nó chuyển những khoản tiền khổng
lồ từ các nhà đầu tư sang các nhà môi giới chứng khoán mà không
tạo ra giá trị mới. Các nhà đầu tư trung bình dĩ nhiên vẫn thu được
thu nhập trung bình, sau khi bị đục khoét một khoản khá lớn.
Một trong những cách Buffett không thích nhất là người giàu trở
nên giàu hơn bằng con đường quyền chọn mua chứng khoán – kể
từ lúc ông có câu trả lời “Không” nổi tiếng trước vụ chi trả trợ cấp
thôi việc trọn gói tại Salomon. Chính vì vậy mà không một ban quản
trị nào mời ông vào hội đồng lương bổng và phúc lợi của các công ty
mà ông có phần sở hữu. Coca-Cola đã cho Doug Daft quyền mua
650.000 cổ phiếu của họ trong năm 2001. Trước đó Daft yêu cầu
bù đắp cho mình bằng quyền chọn mua cổ phiếu vốn chỉ có
hiệu lực khi thu nhập hàng năm do nó mang lại tăng lên trong
khoảng từ 15-20%. Các cổ đông chấp thuận đề nghị đó trong khi
Buffett ngồi nhìn xuống mũi giày của mình và suy nghĩ. Thôi được
rồi, chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra một lần nữa. Một tháng
sau, hội đồng lương bổng và phúc lợi muộn màng nhận ra rằng