người đến nói với người ở quán Tiêu Tương:
Thầy thuốc sắp đến rồi đấy.
Tử Quyên vâng lời, đắp chăn cho Đại Ngọc tử tế và buông màn xuống. Tuyết Nhạn thì
dọn dẹp trong phòng.
Một lát sau, Giả Liễn đưa thầy lang vào và nói:
Thầy lang thường đến đây luôn, các chị không cần phải tránh.
Bà già treo màn lên. Giả Liễn mời thầy Lang vào ngồi trong phòng, rồi nói:
Chị Tử Quyên, chị hãy kể bệnh tình của cô Lâm cho thầy Vương rõ. Thầy lang họ Vương
bảo:
Hãy khoan, để tôi bắt mạch, và nói xem có đúng hay không. Nếu có chỗ nào sai các cô sẽ
bảo tôi.
Tử Quyên liền đưa tay của Đại Ngọc từ trong màn ra, đặt trên gối dựa, rồi nhẹ nhàng giơ
cái ống áo và cái vòng lên để khỏi đè lấy mạch.
Thầy Lang họ Vương bắt mạch tay này một lúc, lại bắt sang tay kia, rồi cùng Giả Liễn đi
ra nhà ngoài ngồi và nói:
Sáu mạch đều huyền
là do ngày thường hay tư lự mà ra.
Đang nói thì Tử Quyên cũng ra đứng phía trong cửa. Thầy lang liền bảo Tử Quyên:
Bệnh này thường chóng mặt kém ăn uống, hay chiêm bao; mỗi lúc đến canh năm, thế nào
cũng tỉnh dậy mấy lần; ban ngày dù nghe những việc không liên quan đến mình cũng cứ
tức giận và hay nghi sợ. Ai không biết thì cho là tính tình quái gở, thực ra chỉ vì can âm
bị suy kém, tâm trí hao mòn, nguyên nhân cũng đều là do bệnh ấy gây nên cả. Có đúng
thế không?
Tử Quyên gật đầu, nói với Giả Liễn: Thầy nói rất đúng. Thầy Lang nói: Thế thì được.
Nói xong, ông ta cùng Giả Liễn đi ra thư phòng kê đơn.
Bọn hầu trai đã sắp sẵn một tờ thiếp mai hồng. Thầy lang uống trà xong cầm bút viết:
“Sáu mạch huyền và chậm, vì ngày thường uất tích. Mạch “thốn” bên phải vô lực; tâm
khí đã suy. Riêng mạch “quan” lại mạnh là can tà vượng hơn. Mộc khí không tiết ra được,
thế nào cũng lấn tỳ thổ, vì thế mà ăn không biết ngon, thậm chí thắng cái không thể
thắng; phế kim nhất định bị thương. Khí không lưu thông, ngưng tụ lại thành ra đờm;
huyết theo khí mà trào lên, tất sinh ho. Đúng thì phải “Sơ can bảo phế” nuôi dưỡng tâm
tỳ. Tuy có thuốc bổ, cũng không nên dùng ngay. Bây giờ hãy xin dùng bài “Hắc tiêu dao”
để khai thông trước đã, rồi sau dùng bài “Qui phế cố kim” để uống tiếp theo. Ý định của
tôi như thế, xin chờ bậc cao minh xét lại mà dùng”.
Viết xong, thầy lang lại kê thêm bảy vị thuốc và mấy vị thuốc dẫn. Giả Liễn cầm lên xem,
hỏi:
Huyết đang xung mà dùng được sài hồ à?
Cậu Hai chỉ biết sài hồ là vị thuốc có tính chất bốc lên, bệnh thổ huyết nên kiêng, không
biết dùng miết huyết
mà sao đi, nếu không dùng sài hồ thì không thể khai thông được
khí ở kinh thiếu dương. Dùng miết huyết mà hạn chế bớt đi, làm cho nó không đến nỗi
bốc lên quá, thì sài hồ có thể bồi dưỡng được can âm và ức chế được tà hỏa. Vì thế sách
nội kinh nói: “Nhân thông mà dùng cách thông, nhân tắc mà dùng cách tắc”. Dùng sài hồ