Trong sân không một tiếng đáp lời, chỉ còn tiếng gió ào ào kéo qua, ánh
sáng xanh loé lên bốn phương, một bóng dáng như du long vọt lên, kiếm
bén trong tay bổ ngang chém xéo, hơi lạnh như sao, cắt giữa thinh không,
mang theo khí thế của thiên binh vạn mã, thạch phá thiên kinh, đột nhiên cổ
tay khẽ chuyển, kiếm khí uốn lượn, tinh diệu không một kẽ hở, lúc như kim
câu treo ngược, khi lại như hồng nhạn dang cánh chao lượn. Kiếm tuỳ ý mà
lướt đi, tiêu sái tự nhiên, hội đủ cương nhu, kiếm quang ánh lên sáng quắc.
Chợt ánh sáng bạc lướt nhẹ, tiếng rít xé gió càng gấp lên, gió cắt qua mặt
đau rát, văn sĩ chớp mắt, không ngờ được mũi kiếm nhọn hoắt kia đang
nhắm thẳng về phía mình, lòng hoảng hốt, chưa kịp lên tiếng, mũi kiếm đã
kề sát yết hầu.
“Tướng quân?” Mũi kiếm lạnh toát chỉ cách yết hầu y chừng nửa tấc, y
ngước mắt, bắt gặp ánh mắt còn lạnh lẽo hơn kiếm bén của Lâm Thuỵ Ân,
trong khoảnh khắc có cảm giác vừa ngã xuống hầm băng giá lạnh muôn
trùng, văn sĩ thốt lên một tiếng “Tướng quân”, giọng nói run rẩy.
Cực nhanh đảo qua mặt văn sĩ, gương mặt Lâm Thuỵ Ân không mảy
may đổi khác, cổ tay nhẹ chuyển, kiếm quang nhạt đi, văn sĩ thấy hoa mắt,
hàn khí hư hao, không kịp nhìn rõ động tác, đã thấy kiếm nằm gọn trong vỏ,
trái tim vọt lên giờ đây được buông xuống, thở phào một hơi.
“Lệnh truyền tới lúc nào?” Giọng nói lạnh nhạt, từng chữ từng chữ
không chút hơi ấm thoát khỏi miệng Lâm Thuỵ Ân.
Văn sĩ ngẩn người, lập tức nhớ lại sự việc vừa bẩm báo, nhìn vào mắt
Lâm Thuỵ Ân, tựa hồ nhận ra hắn đang phẫn nộ.
“Sáng nay, không lâu sau khi Ấn phi sinh hạ long tử…”
“Ta hỏi ngươi khi nào thì truyền lệnh tới Vũ Lâm quân?” Lớn tiếng ngắt
lời văn sĩ, Lâm Thuỵ Ân lộ ra cơn giận dữ không thể kiềm chế pha lẫn trong