hiện một sự vờ vịt nào khi đo lường mức độ đóng góp chính xác của
từng khả năng vào kết quả cuối cùng”.
35
Terman dùng phương pháp “tính điểm theo tuổi” của Binet rồi sáng
chế ra một hệ thống điểm, trong đó điểm của một đối tượng nhất
định được so sánh với điểm trung bình của những đối tượng “bình
thường” cùng tuổi. Nếu giống hệt nhau, nó đưa ra “chỉ số thông
minh” là 100, tương đương với 100% tiêu chuẩn liên quan đến tuổi
tác. Terman nhận ra rằng, tuổi tác không thành vấn đề. Chỉ số IQ
của một cá nhân là không thay đổi. “Trẻ em có trí thông minh vượt
trội sẽ không kém đi khi lớn lên,” ông nói, “và trẻ em đần độn sẽ
không phát triển trí thông minh lên mức trung bình.”
36
Mười bốn năm sau khi The Measurement of Intelligence được xuất
bản, Terman nhìn lại thời điểm đó với một số hoài nghi về những gì
diễn ra sau khi công trình này ra đời. Ông nói, thời điểm đó bản hiệu
chỉnh các bài kiểm tra Binet của ông vượt trội hơn hẳn các bài kiểm
tra khác đang được lưu hành, “nhưng tôi không thấy trước xu
hướng tương lai và nghĩ rằng, nó sẽ bị thay thế bởi một sản phẩm
tốt hơn nhiều trong vài năm tới.”
37
Ông cũng không kém phần ngạc
nhiên khi thấy “những bài kiểm tra trí tuệ” được đón nhận một cách
nhanh chóng.
Chúng ta sẽ sớm trở lại câu chuyện của Terman trong Chương 12
để xem xem những bài kiểm tra trí thông minh được tái điều chỉnh
trong quân đội và môi trường làm việc như thế nào. Bài kiểm tra
năng lực học thuật SAT cũng nổi lên từ những công trình mà
Terman thực hiện. Quan điểm về năng lực trí tuệ đa dạng mà SAT
đo lường rất quan trọng đối với những sinh viên chuyên ngành khoa
học nhân văn đang trên con đường tìm việc.