mình, điểm cao đã phản ánh “nguồn tài trợ tốt hơn”, và rằng sự
khác biệt giữa các tầng lớp và chủng tộc chủ yếu là do di truyền.
Những phản đối của Lippmann không làm chậm lại sự phát triển
của “kiểm tra trí tuệ”. Bài kiểm tra Trí thông minh Thorndike đã sàng
lọc những học sinh trung học đang tìm cách vào đại học; sau khi
vượt qua nó và bắt đầu việc học, họ còn một bài kiểm tra nữa cần
thực hiện để hoàn thành bước tiếp theo: Xác định nghề nghiệp. Bài
kiểm tra trở nên thông dụng nhất trên cả nước là Strong Vocational
Interest Blank (ngày nay là Strong Interest Inventory). Chữ “Strong”
này lại tình cờ trùng với họ của nhà tâm lý học Stanford đã phát
triển bài kiểm tra này, Edward K. Strong, Jr.
Năm 1922, ban giám hiệu Stanford mời Lewis Terman chuyển từ
khoa Giáo dục sang Quản lý và mở rộng khoa Tâm lý học. Từng
làm việc với Strong trong chiến tranh, Terman đã mời ông ta từ viện
Công nghệ Carnegie sang làm việc tại khoa mình.
51
Cũng như Binet và Terman đã từ bỏ nỗ lực xác định các hợp phần
của trí thông minh và quyết định sử dụng đáp án từ đa số đối tượng
nghiên cứu để thiết lập cơ sở, Edward Strong cũng từ bỏ nỗ lực để
xác định các hợp phần trong năng khiếu cho một ngành nghề cụ
thể. Thay vào đó, Strong thực hiện một mẫu khảo sát những người
thuộc một lĩnh vực cụ thể về mối quan tâm trong và ngoài nghề
nghiệp để lấy câu trả lời của họ làm cơ sở. Một phiên bản của bài
kiểm tra vớ i 400 câu hỏi, gồm các câu liên quan đến mối quan tâm
của chủ thể với những điều có vẻ được chọn ngẫu nhiên: “Bạn có
thích thuyết trình không? Bạn có thích ngắm nhìn hàng hoá không?
Bạn có thích người nhai kẹo cao su không?”.
52
Ông bắt đầu các
cuộc khảo sát với bác sĩ, luật sư và kỹ sư. Sau đó, ông hỏi sinh viên
nam – suốt 10 năm, không có phiên bản dành cho nữ sinh
53
–
những câu hỏi tương tự về sở thích của họ. Tùy vào độ tương quan
giữa câu trả lời của sinh viên với câu trả lời của người lao động
trong một ngành nghề, một chữ cái được chọn ra để đại diện cho sự
tương thích giữa sinh viên với nghề nghiệp triển vọng: A, B hoặc C,
đại diện cho toàn bộ gam màu, từ gần như tương thích đến không
hề tương thích.