thể trong lĩnh vực này nếu được chấp nhận, hoặc (b) coi chúng ta
như lựa chọn thứ hai, sau một hoặc một số trường khác mà họ đã
nộp đơn và có cung cấp chuyên ngành CS.”
23
Hargadon không hình
dung đến việc chuyển khoa CS ra khỏi trường Nhân văn và Khoa
học. “Tôi nghĩ, ngành kỹ thuật của chúng ta hấp dẫn chí ít vì được
thiết lập trong một trường đại học khai phóng. Tôi cho rằng, một
chuyên ngành đại học về khoa học máy tính sẽ không kém phần
hấp dẫn vì lý do tương tự,” ông viết.
24
Hargadon sớm thấy được
mong muốn của mình thành hiện thực – chuyên ngành CS được
giới thiệu vào năm 1985 – nhưng chỉ sau khi khoa được chuyển
sang trường kỹ thuật.
Chuyên ngành mới không lập tức thu hút đông đảo sinh viên. Mười
năm sau khi chuyển đổi, vào năm 1995, chỉ có 51 sinh viên học
chuyên ngành CS, tương đương với số sinh viên ngành lịch sử và
bằng một nửa số sinh viên ngành tiếng Anh. Với sự hình thành
bong bóng dot-com
*
vào cuối những năm 1990, số sinh viên đăng
ký đã tăng – khóa tốt nghiệp năm 2001, số sinh viên tăng gấp đôi,
127 người – nhưng khi bong bóng này tan vỡ, lượng đăng ký lại
giảm.
*
Bong bóng dot-com, hay bong bóng Y2K, là bong bóng thị trường
cổ phiếu khi cổ phiếu của các công ty công nghệ cao, đặc biệt là
các công ty mạng, được đầu cơ. Bong bóng Dot-com đã góp phần
tạo nên sự thịnh vượng bất thường trong nền kinh tế Hoa Kỳ cuối
thập niên 1990.
Ý tưởng cho rằng sinh viên đại học nên theo đuổi chuyên ngành CS
mới được chính thức chấp nhận trong thời gian gần đây: Sau cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2008. Tài chính mất đi sức hấp dẫn, và
ngành thụ hưởng là khoa học máy tính. Nhưng sự thay đổi này, có
thể nói, đã được dọn đường nhờ sự suy giảm của các chuyên
ngành khoa học xã hội. Trong suốt 30 năm, số sinh viên ngành khoa
học xã hội tại Stanford giảm từ khoảng 37% tổng số cử nhân năm
1986 xuống còn 14% vào năm 2016. Trong cùng kỳ, các chuyên
ngành kỹ thuật tăng từ 28% năm 1986 lên 37% năm 2016. (Chỉ