Chuyên ngành Latinh và tiếng Anh đều có 18 nữ và một nam, tiếng
Đức có 16 nữ và 4 nam.
45
Đặc điểm này cho thấy, nam giới tập trung vào chuyên môn sớm và
lựa chọn những hướng đào tạo nghề; trong khi nữ giới tiếp nhận
nền giáo dục khai phóng tổng quát với kiến thức không phải áp
dụng ở nơi làm việc trả lương mà còn theo cách như Leland và
Jane Stanford mong muốn, ở nhà chăm sóc trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Khi giáo sư địa chất John C. Branner nói chuyện với khóa 1898,
cùng một nhóm sinh viên năm cuối, ông ca ngợi những nữ sinh năm
cuối, “Các giảng viên trong khoa biết rằng, nữ sinh trong lớp thông
minh hơn nam sinh.” Nhưng ông đã không khích lệ để họ tiến tới và
tạo dấu ấn riêng trên thế giới. Ông chỉ bảo họ và những sinh viên
nam “kết hôn ngay khi có thể”.
46
Những sinh viên nữ ở Stanford còn nhận được nhiều sự quan tâm
của Jane Stanford. Một năm sau, khi bà chính thức chuyển hơn 10
triệu đô la trị giá của bất động sản, cổ phiếu, và trái phiếu cho
trường, bà yêu cầu hội đồng tín thác thay đổi điều luật và giới hạn
số nữ sinh viên mỗi khóa là 500; yêu cầu này được chấp thuận. Vào
thời điểm đó, có 480 nữ sinh trong số 1.100 sinh viên.
47
“Tôi đã
theo dõi sự tăng nhanh số sinh viên nữ theo học đại học,” Jane
Stanford nói, “và nếu tốc độ tăng trưởng này vẫn tiếp tục trong
tương lai, số sinh viên nữ sẽ vượt xa số sinh viên nam; nếu thế, nó
sẽ thành trường đại học dành cho nữ, thay vì nam giới. Đây không
phải ước nguyện của chồng tôi, của tôi, hay của con trai tôi.”
48
Bà qua đời năm 1905 ở tuổi 76, nhưng con số giới hạn 500 không
được gỡ bỏ cho đến năm 1933.
49
Nhờ hạn chế số lượng nữ sinh viên, trường đại học đã tuyển thêm
nhiều sinh viên nam, những người ít hoặc không quan tâm tới việc
nghiên cứu, nên mất nhiều thời gian hơn để công chúng nhận ra
đây là một trường đại học đào tạo tốt. Trong năm học 1907–1908,
cứ 5 nam sinh thì có 1 người, nhưng chỉ 2,5% số sinh viên nữ, bị
đuổi khỏi trường vì “vi phạm quy chế”.