ra khỏi đầu của những người này thứ ấn tượng sai lầm mà họ thu
được từ cái gọi là đào tạo thực tiễn trong trường kỹ thuật”.
44
Việc đào tạo thực tiễn nên được thực hiện ngay khi nhận được
bằng, sau đó sinh viên mới tốt nghiệp nên dành 2 năm làm việc với
nhiều vai trò khác nhau trong ngành công nghiệp, suốt giai đoạn
thực tập mà họ tự định hướng. Thật đáng lo ngại, Hoover nói, ông
thấy “khi mở cửa khu mỏ cho những sinh viên mới tốt nghiệp các
trường kỹ thuật, không một ai trong 10 người sẵn sàng để trải qua
giai đoạn tập sự này”.
45
Vào thời điểm tốt nghiệp, Hoover không biết sau này nhu cầu về các
kỹ sư khai thác mỏ ở Mỹ sẽ lớn đến mức nào. Nhưng lĩnh vực này
đủ hứa hẹn để thu hút anh trai ông, Theodore, người đã rời trường
William Penn mà không tốt nghiệp, làm việc vài năm rồi theo học tại
Stanford năm 1898, sau khi Herbert tốt nghiệp, tham gia khóa 1901
và tốt nghiệp với tấm bằng địa chất. Sau khi làm việc cho vài công ty
mỏ trên khắp thế giới, ông trở lại Stanford để điều hành khoa Khai
thác và Luyện kim mới thành lập.
46
Trong 9 năm từ khi Herbert Hoover tốt nghiệp vào năm 1895, các kỹ
sư khai thác mỏ của Mỹ đã trở thành bậc thầy trong thời đại đó. Khi
ấy, các công ty khai thác mỏ của Anh, kiểm soát khoảng 75% sản
lượng vàng trên thế giới, đã chuyển giao việc quản lý mỏ cho các kỹ
sư người Mỹ, với số lượng tuyển dụng lên đến hàng trăm.
47
Một
sinh viên chuyên ngành kỹ thuật tại Stanford sẽ được chào đón
nồng nhiệt.
Quá trình học tập và làm việc của Herbert Hoover bắt đầu trong thời
đại kỹ thuật chưa có vị trí đặc biệt và đã được mở rộng sang lĩnh
vực khác. Để giành được “một chân” trong công ty, Hoover đã phải
trải qua công việc đầu tiên không đòi hỏi chất xám và chẳng cần
đến kiến thức đại học – đẩy xe chở quặng – rồi công việc thứ hai tại
công ty của Janin, với mức lương còn ít hơn công việc ban đầu,
nhưng lại đặt nền tảng cho sự nghiệp của ông. Nói chung, tất cả
những gì ông chịu đựng và thực hiện đều sẽ trở nên quen thuộc với
một sinh viên mới tốt nghiệp chuyên ngành giáo dục khai phóng