Tôi có thể tóm lấy từ này ở đầu này hoặc đầu kia, theo mọi hướng, cưỡi
lên nó như cưỡi ngựa rừng, treo mình lên đó như đu lên xà ngang: nó vẫn
luôn đẹp đẽ như thế.
Trinh sát là người quyết định sự sống còn của cả đội quân. Bất chấp
mạng sống bị đe dọa, chiến sĩ trinh sát đơn độc tiến vào vùng đất lạ để phát
hiện ra những mối nguy hiểm. Khi sự may rủi bỗng nổi cơn đỏng đảnh dù
là nhỏ nhất, anh ta có thể giẫm phải một quả mìn và bị nổ tung thành hàng
nghìn mảnh - và thân thể của anh, từ đó trở thành bức tranh ghép hình của
sự anh dũng, sẽ chầm chậm rơi xuống đất, đồng thời vẽ nên trong không
khí một đám mây hình nấm được tạo thành từ các mảnh da thịt - và đồng
đội anh ở doanh trại, khi nhìn thấy các mảnh cơ thể bắn tung lên trời, sẽ hét
lên: “Trinh sát đấy!” Sau khi đã bắn lên một độ cao tương xứng với tầm
vóc lịch sử của anh, hàng nghìn mảnh vỡ ấy sẽ bất động trong chốc lát giữa
không trung, rồi rơi xuống mặt đất nhẹ nhàng đến mức ngay cả quân thù
cũng phải khóc thương cho một sự hy sinh cao cả đến thế. Tôi mơ ước
được chết như vậy: đám pháo hoa ấy sẽ khiến huyền thoại về tôi trở nên
vĩnh cửu.
Nhiệm vụ của trinh sát là soi sáng, theo vô vàn nghĩa của từ này. Và soi
sáng, nhiệm vụ này sinh ra là dành cho tôi: tôi sẽ là một ngọn đuốc sống.
Nhưng vì có khả năng tự biến đổi như những kẻ biến hình thiên tài, trinh
sát còn có thể trở nên vô hình, vô thanh. Hình bóng bí ẩn đó lén thâm nhập
vào hàng ngũ đối phương mà không để bị phát hiện. Gián điệp là kẻ mánh
khóe nên sẽ ngụy trang; còn trinh sát, với bản chất anh dũng, không thèm
làm trò cải trang ấy. Nấp trong bóng tối, anh mạo hiểm cao độ với mạng
sống của mình.
Và khi trinh sát trở về doanh trại sau chuyến do thám cảm tử, với lòng
biết ơn và sự thán phục, đồng đội của anh tiếp nhận những thông tin vô giá
anh đem về như tiếp nhận một món quà trời ban tuyệt vời. Ngay từ lúc