Hệ quả tức thì: tôi chính là vẻ đẹp của thế giới.
Không phải vì tạo vật bằng da thịt, tóc và xương bảy tuổi này có gì làm
lu mờ các tạo vật như mơ trong những khu vườn của thánh Allah và trong
khu biệt cư của cộng đồng quốc tế.
Vẻ đẹp của thế giới, đó là điệu nhảy thật dài của tôi ngay giữa ban ngày,
là tốc độ chú ngựa của tôi, là trí óc tôi vênh vang giống như cánh buồm
trước làn gió thổi từ cánh quạt.
Bắc Kinh có mùi như thể một bãi nôn của trẻ con.
Trên đại lộ Xấu xí Ở được, chỉ có tiếng phi nước đại của ngựa để át đi
tiếng khạc nhổ, lệnh cấm tiếp xúc với người Trung Quốc và những ánh mắt
trống rỗng khủng khiếp.
Khi đến gần tường rào, con ngựa phi chậm dần để những người gác cổng
có thể nhận ra tôi. Trông tôi không khả nghi hơn thường lệ.
Tôi bước vào khu biệt cư Tam Lý Đồn, nơi tôi sống từ khi nghĩ ra
chuyện viết lách, nghĩa là từ khoảng hai năm nay, bên cạnh những kẻ từ
thời đồ đá, dưới chế độ của Bè lũ Bốn tên.
Wittgenstein có một câu nói bất hủ: “Thế giới chính là những gì tồn tại”.
Năm 1974, Bắc Kinh không tồn tại: tôi không có cách nào tốt hơn để
miêu tả tình hình.
Wittgenstein không phải là tác giả yêu thích của tôi khi bảy tuổi. Nhưng
tôi đã dùng tam đoạn luận trên đây để đi đến kết luận rằng Bắc Kinh không
có gì liên quan đến thế giới.