ven biển khác nói lên một điều chắc chắn là, địch còn sử dụng các vị trí
khác nữa để nhận hàng chuyển bằng đường biển".
… Sáng hôm sau chúng tôi cùng anh Hồ Đắc Thạnh từ Quy Nhơn trở về
Phú Yên. Tới trụ sở ủy ban nhân dân, đã thấy các anh lãnh đạo tỉnh và một
số cán bộ đầu ngành chờ đó. Biết có những người muốn tìm hiểu về con
đường vận chuyển vũ khí trên biển, trong đó Vũng Rô là một mắt xích, ai
cũng hồ hởi. Chưa nơi đâu những người lãnh đạo nhiệt tình với việc tìm lại
quá khứ như vậy. Thường thì những kẻ đương chức, chỉ khoái “thì hiện tại”.
Họ nghiền sách báo, phim ảnh nói về mình. Phú Yên như một ngoại lệ...
Quá trưa, cán bộ lãnh đạo tỉnh cùng cựu thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh, anh
Nguyễn Ngọc Cảnh, người trực tiếp làm nhiệm vụ hủy tàu đưa chúng tôi ra
Vũng Rô.
Đứng trên đèo Cả nhìn xuống, Vũng Rô giống như một cái nong lớn chứa
đầy nước. Núi Đá Bia và Mũi Mác như hai càng cua bao lấy một vùng biển.
Nước ở đó rất xanh, tầu đánh cá ken dày, đỗ san sát. Không một dấu vết nói
rằng nơi đây từng xẩy ra cuộc đọ súng suốt tám ngày đêm của đơn vị K60
mới thành lập, du kích với hai tiểu đoàn địch có máy bay tàu chiến yểm
trợ...
Ca-nô của bộ đội biên phòng tỉnh chở chúng tôi sang bên kia Núi Nưa. Năm
tháng qua đi, xác tàu 143, chìm dưới biển, dẫu chẳng rõ hình hài, vẫn lập lờ
kia, nơi Bãi Chùa. Thời gian, nước mặn đã khiến khối thép biến dạng. Rồi
chúng tôi đi lên bờ. Lên bờ để nhìn cho rõ nơi đã có hàng trăm tấn vũ khí,
như thần thoại được chuyển vào đây... Dừng lại bên nấm đất thấp bé lẫn
giữa lúp xúp cỏ, ẩn dưới chân núi, chúng tôi được nghe kể lại rằng đây là
mộ người chiến sĩ đã “ra đi” trong cuộc chiến đấu bảo vệ tàu, bảo vệ bến.
Tên anh là gì, quê quán ở đâu, chẳng ai hay. Những đồng đội rõ về anh, tản
mạn mỗi người một nẻo, thậm chí đã mất. Trên 35 năm rồi sau sự kiện
Vũng Rô, và gần 30 năm rồi sau giải phóng, anh vẫn nằm đó, vô danh, lạnh
lẽo, đơn côi. Thi thoảng lắm, bà con đánh cá đi qua, ghé vào, thương tình
đốt một nén nhang. Và chỉ vậy thôi. Đi tìm dấu tích về các anh, về con
đường mà đến tên tuổi người nằm lại bến cũng chẳng rành. Thôi thì, trong
sư vắng lặng quạnh hưu và hoang lạnh nơi đây, lại thắp thêm cho anh một
tuần nhang, cắm xuống tạ lỗi… Và cũng chỉ có khả năng làm đến vậy...
Chơt, tôi đứng lặng lắng nghe, đâu đó có tiếng chim cu thanh thản cất lên.
Ôi tiếng chim, tiếng chim nơi thung lũng kề cận biển. Yên ả, bình an quá!