sốt. Dường như quỉ kế ấy nằm ngoài tầm suy nghĩ của moị người. Bởi trước hết, Chế Mân là một người văn võ toàn tài. Ông lại có một đội
cận vệ cực kỳ trung thành với nhà vua. Thứ nữa, là từ khi cưới Huyền Trân tới nay. Ông ban nhiều ân tứ cho lớp cùng đinh. Cho nên ông
bị một số quan lại ngấm ngầm chống đối, nhưng ông được toàn dân ngưỡng mộ, tri ân. Trong tình thế như vậy, mà tổ chức một vụ thích
khách hay đầu độc, là một điều hết sức khó khăn.
Gần như các quan đều có chung một ý nghĩ như vậy. Riêng quan Bố-đề nghĩ khác. Ông ta nói với vẻ khúc chiết, mạch lạc và bình
tĩnh tới mức không ai nghĩ đó là người vừa bị cất chức, và sắp phải lưu đày viễn xứ.
- Tôi cũng nghĩ như các ông. Việc đó làm ngay trong lúc này là không thể được. Mà phải án binh bất động, chờ thời cơ. Phải nhằm
lúc kẻ kia hý hửng, tưởng như cả thiên hạ đang ở trong lòng bàn tay y. Ngo ngoe động đậy, sẽ bị bóp chết. Tới lúc đó mới có thể liệu tính
được. Bây giờ, sau khi tôi đi rồi, các ông phải làm ra vẻ nhất nhất theo lệnh quốc vương, rồi lại phải luôn xưng tụng tri ân hoàng hậu
Paramecvari. Tôi đi, nhưng tai mắt của tôi còn đầy triều, lại có thêm sứ đoàn nhà Nguyên ở đây giúp rập làm hậu thuẫn. Nhất là ngài Lý
Quí từ Thăng Long tới, ngài đã hiểu rõ gan ruột người Đại Việt, lại mưu kế như thần, hẳn ngài sẽ giúp ta thành tựu.
Lý Quí lại lên giọng dạy đời:
- Cái ông tể tướng này nói đúng. Các ngài cứ toa rập như thế chắc là thành công.
Trần Huyền Trân từ khi về Chàm, luôn luôn nhớ lời căn dặn của vua cha lúc chia tay trên đỉnh Yên Tử: “Nếu con làm mọi việc đều
xuất phát từ lợi ích của người nhiều hơn lợi ích của riêng con, chắc là con sẽ thành tựu cả”.
Huyền Trân tự kiểm xét sau gần một năm về quê chồng: “Ngay từ bước chân đầu tiên, ta đi là vì sứ mệnh của đất nước, vì một nền
hòa hiếu cho hai quốc gia, chứ ta không tham ngôi cao lộc hậu. Mặc dù ta được nhà vua sủng ái, nhưng ta vẫn luôn nhắc ông phải
thương đến mẹ con hoàng hậu Tapasi. Chính việc lập thế tử, là do ta thúc ép. Ý ông là muốn chờ ta sinh con đã. Nhưng ta khuyên ông
nên nghĩ đến lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, tới nay ta cũng phải thú nhận rằng, ta rất yêu ông. Và yêu cả đất nước ông. Ta sẽ vì ông mà làm
tất cả để cho quốc gia của ông hưng vượng được. Mới đây, các chính sách cải cách của ông ban ra, khiến ơn mưa móc nhuần thấm trong
đám dân đen, làm ta hả lòng hả dạ. Ông luôn dò hỏi ta về các phương sách của Đại Việt. Chính việc cải cách trong quan lại triều đình và
việc tìm kiếm người hiền là tự ông ban bố! Việc này quá đột ngột, ta e rằng ông sẽ bị họ ngấm ngầm chống lại. Ông có hỏi ta rất kỹ về kế
sách đánh giặc giữ nước, và nhất là cuốn binh thư của đức Quốc công tiết chế Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Ta có nói: Đó là
cuốn “Vạn Kiếp tông bí truyền thư”. Nhưng ta đã nói rõ ta không đem theo, nếu nhà vua cần có thể tự chép lại đầy đủ. Cuốn sách đó
không có gì bí mật cả.