Quân Nguyên vẫn có lối đánh sở trường là dùng sức mạnh của kỵ
binh áp đảo đối phương. Giặc cho hàng trăm con ngựa chiến với các kỵ
binh Mông Cổ phóng như bay và chúng vừa cưỡi ngựa vừa bật dây cung,
tên bay vun vút rít lên trong gió tưởng như lũ chúng có thể quần nát cả cái
ải này chỉ trong thoáng lát.
Nhưng cửa quan đã đóng sập, đám kỵ sĩ dừng ngựa trước ải. Những
con ngựa chiến vùng thảo nguyên to cao lừng lững bị ghìm cương bất ngờ
chúng đều chồm hai vó trước lên và hí vang tức tối. Quân giặc vón lại thành
một đám đông chờ lệnh.
Đúng lúc đó, Hưng Đức hầu cho thúc trống đồng và hàng nghìn cung
thủ với nỏ liên châu
[45]
tẩm độc. Chỉ cần đầu mũi tên chích xước da thì
ngay cả lũ ngựa chiến cũng trong giây lát là tê liệt toàn thân, mắt trắng dã
như mắt cá luộc, miệng sùi bọt và giãy đạp vài cái rồi tắt thở. Ngựa còn thế,
lũ lính kia sao chống đỡ nổi. Mặc dù đám quân Mông Cổ đều đội mũ da, có
mảnh giáp da nịt khít vào lồng ngực làm giáp hộ tâm lại có cả khiên để che
người. Song một khi chúng đã dồn nhau lại lúc nhúc như cá trong chậu, thử
hỏi làm sao mà che chắn được, làm sao mà chống đỡ lại được với các cung
thủ thiện xạ và những mũi tên như có mắt thần của ta.
Người và ngựa giặc chết hàng loạt, chúng cứ khuỵu chân xuống rồi
vật ngã như những thân cây bị luỗng gốc.
Từ phía sau, tướng giặc Bôn-kha-đa giận đến sôi máu, y quay lại nói
với Trịnh Bằng Phi như gắt:
- Lũ giặc nhãi ranh này làm quẩn chân ta. Từ khi vào đất nó tới nay
mới có sáu bảy ngày trời mà ta phải giao chiến tới gần hai chục trận rồi;
trong khi Trấn Nam vương mong ta từng ngày. Ta thề phải giết hết dân nó,
xé nát giang san nó. Rồi y lấy roi ngựa vẫy lũ quân phía sau tiến lên.
Thương thay lũ người và ngựa Mông Cổ liên tiếp gục ngã chồng đống
không kịp ngáp, không kịp kêu. Kỵ binh vốn là niềm kiêu hãnh của Hốt-tất-
liệt, bởi nó đã từng làm nghiêng đổ biết bao quốc gia từ đông sang tây, vậy
mà nó phải thúc thủ trước một ải lũy sơ sài ở cái xứ Giao Chỉ bé bằng bàn