nhìn thấy gương mặt hắn thất thần như thế nào. Quả thật trong cuộc đời
giang hồ trên biển cả, chưa bao giờ tính mạng hắn lại bị cái chết đe dọa liên
tiếp như thế này. Hổ đang rất hoang mang, không biết phía sau có bao nhiêu
thuyền thoát nạn theo hắn vượt qua cửa tử này. Theo định hướng la bàn, hắn
biết đường đi đang hướng vào cửa Bạch Đằng, nhưng sao phía trước lố nhố
không biết bao nhiêu trái núi đang hiện lên cản đường, cứ như hắn đang đi
vào cửa tử của một trận đồ bát quái. Khen thay tên lái thuyền cũng vào tay
quái kiệt, không những y thoát được cái miệng nước khủng khiếp, lại tránh
được cả những trái núi sừng sững kia. Vừa không va vào vách núi, vừa
tránh được đá ngầm. Tránh đá ngầm phải là những tay lái thuộc luồng lạch
và ban ngày ban mặt trông màu nước mà biết nông sâu, chứ ban đêm sao
tránh nổi. Có nhẽ bọn chúng còn gặp may chưa chết ấy là bởi đang lúc nước
triều lên.
Không biết có mấy chiếc thuyền lương đã thoát qua miệng nước vào
trong vịnh, nhưng có một chiếc do lái thuyền điều khiển thế nào mà mũi
thuyền đâm thẳng vào vách núi, thuyền gãy đôi, như người ta bẻ miếng
bánh đa vừa mới nướng. Chỉ nghe một tiếng gãy khô khốc rồi thuyền chìm
mất tăm. May mà thuyền giặc đi thưa thoáng, nếu không sẽ nối đuôi nhau
chìm nghỉm.
Mãi rồi đêm tối cũng lùi xa và bình minh dần hé mở. Khi đã nhìn
được bằng mắt thường, một quang cảnh hiện ra khiến Trương Văn Hổ ngỡ
ngàng. Mặt biển trắng một màu sữa, sương khói bốc lên chầm chậm phủ
quanh các ngọn núi và chỉ còn phơi một chỏm trên chóp đỉnh. Các ngọn núi
như đang đội sương mù mọc lên. Trương Văn Hổ như quên mình là kẻ thất
trận, thoáng lát y có cảm giác như đang lạc vào thế giới của thần tiên.
Lại nói Nguyễn Khoái cho quân ngăn giặc không để chúng vượt qua
Cửa Đối, còn Nguyễn Chế Nghĩa vẫn bủa quân ở phía ngoài săn những
thuyền giặc trốn chạy. Đêm tối không rõ số thuyền chiến và thuyền lương
chúng lọt vòng vây trốn chạy được bao nhiêu chiếc, nhưng từ khi trời hửng
sáng thì những chiếc nào còn lại nếu không bị đánh đắm tại chỗ cũng buộc
chúng phải chui vào Cửa Đối.