lên đọc cuốn sách trên trần nhà, những chữ cái tròn xoe và to tướng.
Nó gợi tôi nhớ đến cuốn sách của bố, đầy những truyện kể về người
khổng lồ.
“Xin lỗi, thưa ông,” tôi nói với ông ta. Ông ta rời mắt khỏi cuốn
sách trên trần nhà nhưng tay vẫn không ngừng vắt sữa. “Cháu đang
tìm bố cháu. Ông ấy tên là Henry, bị bắt đi bởi người khổng lồ cùng
với một con bê mới sinh. Ông có nhìn thấy bố cháu không ạ?”
“Có người mới đến bên cái chuồng làm từ hộp đựng bánh mì ấy,”
người đàn ông đáp. “Tới đây được một hai tuần rồi. Cũg chẳng nhớ
anh ta có con bê hay con lợn nữa.” Một cảm giác khấp khởi hy vọng
lâm râm lan tỏa trong lồng ngực tôi.
Tôi ba chân bốn cẳng chạy xuống cuối bàn cho tới khi tìm thấy cái
hộp đựng bánh mì. Có một người đàn ông bên trong, nhưng đó không
phải bố. Ông này to béo ục ịch, đang ôm một con lợn trong vòng tay
và cho nó ăn táo. Người đàn ông ngước mắt lên.
“Xin chàooo! Tới để hất xô cám vào ta đó hả, Jack?”
Tôi nheo mắt. “Bác Horace?” Bác ta đã mọc thêm một bộ râu xồm
xoàm, nhưng tôi vẫn nhận ra bác ấy nhờ con lợn Cindy. Tôi mỉm cười.
Đó không phải là bố, nhưng việc nhìn thấy ai đó từ quê nhà giống như
tìm được một dấu hiệu hay tấm biển chỉ đường, mách bảo bạn biết
rằng mình đang đi đúng hướng vậy.
“Bố cháu có ở đây không ạ?”, tôi hỏi.
“Chưa thấy ông ấy, nhưng ta cũng chẳng thấy gì nhiều nhặn bên
ngoài cái hộp đựng bánh mì. Toàn lợn là lợn. Ta canh giữ hầu hết lũ
lợn trên cái bàn này, cho chúng ăn cám và các thứ, tới khi tất cả bọn
chúng đều biến thành món thịt muối cho người khổng lồ.”
Tôi nhăn mặt.
“Ta biết,” Horace đáp. “Nhưng ít nhất thì họ cũng không biến chúng
ta thành thịt muối. Và chúng cho ta giữ lại Cindy.”
“Bác có nhớ gì về cái đêm bị bọn khổng lồ bắt đi không ạ? Bác có
nhớ bất kỳ điều gì liên quan đến bố cháu không?”