“Giờ thì hãy là những cậu bé ngoan và vắt sữa bò đi nhé,” bà
Martha nói. “Mà này Tom, con yêu à, đừng có cố tình phun sữa vào
Harold hay lũ gà nữa đấy. Con biết việc đó khiến ông ấy bực bội thế
nào, lại còn dọa rồ lũ gà mái, mà chúng ta thì cần tận dụng từng quả
trứng bé xinh để nấu cho đức vua, chưa kể tới từng giọt sữa nhỏ. Thần
linh ơi, đức vua thì dường như chẳng bao giờ ngừng ăn cả. Nếu ông ta
chỉ cần ăn vàng mà sống được, thì ta sẽ chẳng bao giờ phải nấu nướng
nữa!” Bà Martha rời chúng tôi đi lo bữa sáng cho Đức vua.
“Nhanh lên,” Tom giục. “Vắt sữa nhanh lên còn đấu kiếm.”
“Nhưng bố tớ...”, tôi nhắc cậu, ngó xuống hàng loạt các dãy
chuồng.
Tom thở dài đánh sượt. “Thì đi tìm đi, nhưng vẫn phải giúp tớ vắt
sữa đấy nhé. Mẹ Martha sẽ rất buồn lòng nếu như việc không xong,
mà tớ thì không muốn bà ấy khóc đâu. Chết chìm như chơi.”
“Tớ sẽ quay lại!” Tôi hứa. Có khi còn dắt theo cả bố nữa cũng nên!
Tôi chạy dọc tâm cái bàn, trông nó giống như một con đường dẫn
qua một ngôi làng kỳ lạ. Bò và lợn được quây nhốt trong những hàng
rào bằng sợi len và kẹp quần áo. Gà qué làm ổ trong những cái chuồng
dã chiến làm từ đèn lồng, tách trà và một cái mũ khổng lồ lật ngửa lót
đầy rơm rạ. Cái bàn được viền quanh bằng một loại hàng rào làm từ
những cây dĩa cắm ngập vào mặt gỗ, ở giữa là những cọc trụ căng lưới
thép. Một người đàn ông đang rải cỏ khô bằng một cây dĩa khổng lồ
thay cho bồ cào.
“Xin thứ lỗi, thưa ông,” tôi nói. “Cháu đang tìm bố cháu. Ông ấy
tên là Henry, bị bắt đi bởi người khổng lồ cùng với một con bê mới
sinh. Ông có nhìn thấy bố cháu không ạ?”
“Không,” người đàn ông đáp, và tiếp tục rải cỏ khô, hoàn toàn
không đếm xỉa gì đến sự rối bời của tôi.
Tôi đi tiếp. Tôi tới một cái chuồng dựng từ những cuốn sách. Ba
cuốn làm tường, cuốn thứ tư đặt mở trên đỉnh tạo thành một cái mái
chữ A. Thậm chí còn có một người đàn ông vừa vắt sữa vừa ngửa mặt