phải trích một khoản doanh thu cho Google từ đơn đặt hàng thông
qua công cụ tìm kiếm này. Với mục đích biến loại hình quảng cáo
mới này trở nên hiệu quả hơn, Amazon phát triển hệ thống mua
quảng cáo tìm kiếm tự động trên web đầu tiên, mang tên
Urubamba theo tên của dòng sông ở Peru, một nhánh của sông
Amazon. Tuy nhiên, Bezos cũng thận trọng khi giúp Google phát
triển những công cụ có thể sau này sẽ chuyển thành đối thủ cạnh
tranh của Amazon. “Hãy đối xử với Google giống như với ngọn núi.
Bạn có thể trèo lên núi, nhưng bạn không thể di chuyển nó,” ông nói
với Blake Scholl, nhà lập trình trẻ phụ trách Urubamba. “Hãy sử dụng
họ, nhưng đừng khiến họ thông minh hơn.”
Google cạnh tranh với Amazon về cả khách hàng và nhân sự là
những kỹ sư tài năng. Sau vụ IPO, gã khổng lồ trong lĩnh vực tìm
kiếm mở văn phòng tại Kirkland, cách 20 phút lái xe từ trung tâm
Seattle. Google đưa ra chế độ thù lao hậu hĩnh, như miễn phí đồ ăn,
tập gym tại văn phòng và dịch vụ trông trẻ em vào ban ngày, không kể
đến quyền chọn mua cổ phiếu giá trị. Trong khi đó, Amazon đưa
ra chính sách giá cổ phiếu tệ hại, văn hóa công ty hiếu chiến và
nhân viên vẫn phải trả phí đỗ xe và đồ ăn. Không mấy ngạc nhiên,
Google bắt đầu đánh cắp ồ ạt những kỹ sư tài năng khỏi tay
Amazon.
Trong thời gian này, Bezos luôn ủng hộ chủ trương mạo hiểm đầu
tư vào lĩnh vực ngoài thế mạnh của Amazon. Trong giai đoạn từ năm
2003 đến 2005, Amazon phát triển công cụ tìm kiếm riêng, cho
phép khách hàng tìm kiếm những cụm từ trong nội dung của sách
trên trang web. Bezos cũng đỡ đầu phát triển mô hình hiện đại với
dịch vụ mang tên Mechanical Turk và đặt nền tảng cho dịch vụ web
Amazon – khởi đầu của kỷ nguyên điện toán đám mây.