sát khi bị người Pháp bắt làm tù binh. Người ta còn gọi nó là Sans Souci. Tức
là vô ưu. Phố Vô Ưu. Sorgenfrigata. Anh biết không, ông ta đã chĩa những
họng đại bác lên trời để trả thù Chúa.”
“Ừm…”
“Và tôi đoán là anh cũng biết nhà văn Ola Bauer đã nói gì về con phố này
phải không? Tôi chuyển sang con phố Vô Ưu, nhưng điều đó cũng chẳng ích
gì nhiều.” Aune cười nhiều đến nỗi cái cằm hai ngấn rung lên bần bật.
Halvorsen đứng chờ ngoài cửa. “Lúc ra khỏi đồn, tôi đã gặp Bjarne
Møller,” anh ta nói. “Ông ấy xem như vụ này đã xong gọn rồi.”
“Chúng tôi cần thắt lại một vài đầu nút bị tuột thôi mà,” Harry nói, mở cửa
bằng chiếc chìa khóa mà tay thợ điện đã đưa cho anh.
Dải băng cách ly của cảnh sát trước cửa đã bị gỡ và cái xác cũng đã được
đưa đi, còn lại mọi thứ vẫn y nguyên như tối hôm trước. Họ vào phòng ngủ.
Tấm ga trắng trên chiếc giường rộng sáng lên dưới ánh đèn mờ.
“Chúng ta tìm gì mới được chứ?” Halvorsen hỏi trong lúc Harry kéo rèm
lại.
“Một chìa khóa dự phòng của căn hộ,” Harry đáp.
“Vì sao?”
“Chúng tôi đoán là cô ấy có một chìa dự phòng, cái mà cô ấy đã đưa cho
gã thợ điện ấy. Tôi đã điều tra một chút. Không phải cửa hàng khóa nào cũng
đánh được chìa khóa hệ thống, người ta phải đặt hàng nhà sản xuất thông qua
một cửa hàng được ủy quyền. Vì chiếc chìa đó khớp với cửa chính tòa nhà và
cửa tầng hầm, nên ban quản lý tòa nhà này muốn kiểm soát chúng. Thế nên
những người sống ở đây phải viết đơn xin phép ban quản lý khi họ đặt một
chiếc chìa khóa mới, phải không. Theo thỏa thuận với ban quản lý, nhiệm vụ
của cửa hàng khóa được ủy quyền là một danh sách các chìa khóa được phát
cho mỗi căn hộ. Tối qua tôi đã gọi cho Lasesmeden, cửa hàng khóa ở phố
Vibes. Anna Bethsen được phát hai chìa dự phòng, thế nên tổng cộng là có ba