vài phút. Và họ cùng quay lại chỗ quán phở. Ngồi xuống chiếc bàn nhựa
cập kênh, kế bên tôi. Thằng nhỏ chạy bàn đi tới, lạch xạch lau vài ba đường
trên cái mặt bàn xin xỉn, nhờn mỡ, đoạn hỏi: “Bác ăn gì?” Cả bốn người họ
nhìn sang tôi, nhìn sang những bàn khác, rồi tần ngần nhìn tới nhìn lui cái
biển ghi trên cửa quán.
“Phở bò nhé? Tái hay chín?”
“Thêm cả quả trứng cho chắc bụng nhé?”
Hai cậu con nhè nhẹ gật đầu:
“Vâng, gì cũng được.”
“Thế thì cho hai phở bò chín. Hai trứng.”
Thằng nhỏ chạy bàn vo cái khăn trong tay, tần ngần nhìn bốn người, ý
chừng như muốn hỏi:
“Sao bốn người mà chỉ có hai bát?”
Nó chạy ra chỗ ông chủ quán, chỏng lỏn:
“Hai bò!”
Ông chủ quán lăn cái khăn màu cháo lòng qua vuông mặt đỏ lựng vì
lửa than, rồi vắt trả cái khăn về bên vai, tay dao tay thớt nhoay nhoáy.
Trong tích tắc, hai bát phở sóng sánh được bê ra, đặt trịnh trọng trên bàn.
“Chúng mày ăn đi!”
Một trong hai người cha lên tiếng. Đoạn hai ông kéo xích cái ghế ra
ngoài một chút, thì thầm nói chuyện với nhau. Đại loại ba cái chuyện mùa
màng, bò đẻ, vải thiều sụt giá... Rồi tới nữa là chuyện phòng trọ trên này
sao đắt chi mà đắt. Sáng mốt ngủ dậy, mình phải trả phòng luôn, không là