tôi một đồng tiền nhỏ mà tôi không dám ngó, ý hẳn đồng một quan... Rồi
trong khi tôi làm bộ muốn hỏi tại sao, hay cám ơn bà, bà vỗ vai tôi, cười
nói:
“Thôi đi! Mợ biết rồi!”
Bao giờ bà cũng nghèo, bao giờ cũng đi vay nhưng vẫn hào phóng.
Bằng cái giọng khàn khàn, không một chút chua chát, bà nói:
“Bao giờ mợ cũng ngu, nên đời mợ nó mới khổ.”
Tin chắc rằng tôi luôn luôn bận tâm vì tiền cũng như bà, bà không đợi
tôi nói đã vội nhét vào tay tôi món tiền nhỏ để dành được trong ngày. Sau
đó lúc nào bà cũng đón tiếp tôi như vậy.
Buổi tối hôm đó cũng kỳ lạ - vừa buồn vừa kỳ lạ - như những lần đón
tiếp dạo trước. Bao giờ bà cũng có một cây nến ở gần tay, lúc thì cầm lên
để mặc tôi trong bóng tối, lúc thì lại đặt lên mặt chiếc bàn có bày đầy
những đĩa và hũ sứt hay vỡ. Bà nói:
“Cái này hồi thập niên bảy mươi bị bọn người Phổ làm gãy mất quai
vì bọn chúng không lấy mang đi được.”
Khi trông thấy chiếc bình với một lịch sử bị đát như vậy, tôi mới nhớ
ra rằng xưa kia, có lần được cha tôi đưa tới quận Yonne kiếm một nhà
chuyên môn chữa cho tôi cái đầu gối, tới đó phải đáp một chuyến xe lửa tốc
hành đi qua đây lúc gần sáng, chúng tôi đã có ngủ lại và ăn bữa tối trong
căn nhà cậu mợ tôi. Tôi nhớ lại bữa ăn buồn nản cùng những chuyện mà
ông lục sự già ngồi kể, hai khuỷu tay chống trên bàn trước chai rượu màu
hồng. Tôi cũng nhớ lại những nỗi kinh hãi đêm ấy của tôi... Sau bữa ăn,
ngồi trước lò lửa, mợ Moinel kéo cha tôi quay lại để kể một chuyện ma:
“Tôi trở mình lại... Chà! Anh Louis đáng thương ơi, tôi trông thấy gì, tôi
thấy một người đàn bà bé nhỏ màu xám...” Bà mợ tôi vốn có tiếng là trong
đầu đầy những chuyện nhảm ghê rợn.
Tối hôm đó, sau bữa cơm chiều, mệt mỏi vì một ngày đạp xe, khi tôi
đang nằm trong căn phòng lớn, bận chiếc áo ngủ kẻ ô vuông của ông cậu
Moinel để lại, bà mợ tôi tới ngồi ở đầu giường, bắt đầu kể bằng cái giọng bí
mật và the thé nhất của bà: