nhưng đó là việc phải làm. Tiếng chập chõa
(1)
đập vào nhau; guitar của Juan
và tất cả những tiếng organ đều rít lên rồi ngưng lại. “Nhìn những kẻ thù
ngã xuống” , một tiếng thì thầm gấp gáp xuất hiện, “Âm thanh của những
linh hồn đang mời gọi/ Nguồn năng lượng thúc giục…” và rồi Bùm ! Cả
ban Culebar cùng trở lại một lúc: guitar, trống, organ và những tiếng gào
điện tử không dứt.
1. Hay còn gọi là chũm chọe (cymbals)
Mồ hôi ướt đẫm lưng áo, và Sierra mừng vì mình đã mặc một chiếc
áo phông cắt tay và hở vai. Cô kẹp mái tóc xù của mình bằng một chiếc
băng đô màu đỏ và tháo hết đống vòng xích liểng xiểng thường đeo.
Sierra nhúng cọ vào sơn trắng lần nữa ngay lúc giàn giáo rung
chuyển. Cô tháo tay nghe xuống. Ai đó đang leo lên. “Ai đấy ?” , cô gọi.
“Chào!” , gương mặt của Robbie xuất hiện ở cách cô một tầng.
“Robbie!”
Cậu trèo lên tầng ngay dưới Sierra và dừng lại lấy hơi. “Tối qua tớ
đã rất lo cho cậu. Cậu thì... đột nhiên biến mất !”
Sierra chống tay vào hông. “Thực tế, người đã biến mất chính là cậu
đấy, quý ngài. Việc tớ làm được gọi là chạy trối chết.”
“Tớ đã tìm cậu!”. Vai Robbie so lại cao tới nổi nó gần chạm tới
mang tai của cậu. “Tớ thề đấy ! Chỉ là...”
“Ờ hớ.” Sierra nhướng một bên lông mày với cậu và nhận ra là
mình chỉ đang bắt bẻ Robbie cho vui. “Đây nè !” Cô đưa cho cậu cái chổi
lăn. “Cậu có thể đền bù cho tớ bằng việc sơn lớp nền lên và vẽ gì đó ngầu
ngầu ở chỗ kia cho hợp với con rồng.”
“Muốn vẽ gì cũng được hả ?”
“Tới bến luôn.”
“Ngon !” Robbie cúi xuống khay dụng cụ, bật mở một hộp sơn nền
trắng và nhúng chổi vào. “Ý tớ là, vấn đề ở chỗ... tớ cũng quá sợ hãi, nhất
là khi cậu biến mất, và...”
“Chạy trối chết.”