người kia. Anh trả lời bằng thứ tiếng Anh pha giọng Do Thái nhằm mục
đích cho bọn kia biết rằng chúng không nhầm.
“Câu trả lời là có”.
“Vậy thì lúc mười giờ tối nay. Tụi tao sẽ hướng dẫn mày sau”.
Trong những tình huống thông thường, một chuyên gia đàm phán như
O’Donnel có thể áp dụng kế hoãn binh: rắc rối chỗ gom tiền, khó khăn chỗ
xin ý kiến địa phương về việc giao tiền, bất kỳ điều gì nhằm giữ con tin
sống sót và làm cho bọn bắt cóc chịu nói chuyện. Nhưng lần này thì không
phải là tình huống thông thường nữa – bọn khủng bố muốn Gabriel – và
không thể nào trì hoãn thêm nữa. Bắt đầu càng sớm chừng nào thì kết thúc
càng sớm chừng ấy.
“Mày sẽ gọi vào số này chứ?”, Gabriel hỏi.
“Đúng”.
“Tao đợi”.
Cụp.
Gabriel đứng dậy, mặc lên người chiếc áo khoác da, đi xuống cầu thang.
“Anh nghĩ là anh đi đâu?”, Carter hỏi.
“Đi khỏi đây”.
“Anh không thể đi”.
“Tôi không ở đây được, Adrian. Tôi có việc”.
“Để chúng tôi chở anh đi. Chúng tôi không thể để anh đi loanh quanh Luân
Đôn mà không có ai bảo vệ”.
“Tôi tự lo được mà, Adrian”.
“Ít ra cũng để tôi trang bị cho anh một cây súng chứ”.
“Vậy lính của ông dùng cái gì?”.
“Browning siêu hoả lực. Nó không mềm mại và đẹp mã như khẩu Beretta
của anh đâu. Nó khá mạnh đấy. Anh cần mấy băng đạn? Một hay hai?”.
Gabriel nhăn mặt.
“Hai đi nhé”, Carter tiếp. “Và một hộp dự phòng”.
Năm phút sau, vai đeo cái túi mà Carter đưa, cái túi đè mạnh lên phần
xương sống bên dưới, Gabriel lẻn ra ngoài qua cổng phía bắc, rẽ vào phố
Bayswater. Lề đường dọc theo hàng rào Đại sứ quán đã cấm khách bộ hành