một ayin, người chuyên truy tìm. Khi đơn vị này giải tán, anh ta đã định cư
ở Viên và mở một văn phòng điều tra nhỏ có tên Khiếu nại và Cáo buộc
thời chiến. Hoạt động với ngân sách thắt lưng buộc bụng, anh đã kiếm được
hàng triệu đô la trong mớ tài sản cướp được của người Do Thái trong chiến
tranh, anh còn đóng vai trò quan trọng trong việc can thiệp vào khoản giải
ngân nhiều tỉ đô la của các ngân hàng Thuỵ Sỹ. Gần đây anh đã trở về Israel
và dạy môn khảo cổ lịch sử tại Đại học Hebrew. Thời gian rảnh rỗi, anh
thỉnh giảng về mỹ thuật tại Viện hàn lâm. Không có nhân viên được tuyển
mộ nào của Văn phòng lại chưa từng trải qua vài ngày ở hiện trường với Eli
Lavon vĩ đại.
Lavon nói với sự ngưỡng mộ. “Cách nguỵ trang của cậu rất tài tình. Có lúc
chính tôi cũng không nhận ra cậu”.
Gabriel ngắm hình ảnh của mình phản chiếu trong gương treo trên bàn trang
điểm. Anh đeo cặp mắt kính có gọng đen, kính áp tròng biến đôi mắt xanh
thành nâu, một hàng râu dê giả làm nổi bật thêm dáng người vốn đã gầy của
anh.
Lavon nói. “Lẽ ra tôi phải thêm chút màu xám cho tóc của cậu”.
Gabriel trả lời. “Đủ rồi. Sao cậu lại nhảy vào vụ này?’.
“Sự uỷ nhiệm. Tôi cho là như vậy. Tôi đang tham dự hội nghị ở Prague
trình bày kết quả khai quật tại Tel Megiđo. Khi bước xuống sân khấu thì
điện thoại di động reo. Cậu không bao giờ đoán được đó là ai đâu”.
“Tin tôi đi, đó là Eli – tôi đoán vậy”.
“Tôi nghe cái giọng nói đó, giọng của Chúa với cách nhấn giọng Ba Lan
nghe rợn người, bảo tôi rời Prague đi Amsterdam ngay lập tức”, Lavon uể
oải lắc đầu. “Thế ở tuổi của mình, Shamron không có việc gì tốt hơn để làm
ngoài việc lo cho một tên sayan đã chết sao? Ông ấy thật may mắn vì vẫn
còn sống. Ông ấy có thể hưởng thụ vài năm cuối đời, nhưng thay vào đó,
ông ta lại bám vào Văn phòng như người sắp chết đưới vớ được phao cứu
sinh”.
Gabriel nói. “Rosner chính là sayan của ông ta. Tôi chắc là ông ấy cảm thấy
có một phần trách nhiệm trước cái chết của Rosner”.