của cô phụ thuộc vào nó. Cô bị ám ảnh với ý nghĩ rằng tất cả mọi thứ phải
sẵn sàng và trật tự khi em bé ra đời. Nhưng bây giờ cô đã đạt đến giai đoạn
chẳng còn gì để sắp xếp trong nhà nữa. Các tủ quần áo sạch sẽ, phòng em
bé đã sẵn sàng, và các ngăn kéo đựng đồ bạc đã được dọn dẹp. Chỗ duy
nhất còn phải dọn là căn hầm, trong đó toàn đồ bỏ đi. Nói là làm. Cô đứng
dậy, thở phù phù, và kiên quyết cắp theo cái quạt bàn. Cô phải khẩn trương
lên trước khi Patrik phát hiện ra cô đang làm gì.
Anh đang dành năm phút nghỉ giải lao để ngồi bên ngoài đồn cảnh sát ăn
một que kem sô-cô-la thì Gösta ló đầu ra từ một trong những ô cửa sổ đang
mở và hét lên với anh.
“Patrik, có người gọi điện cho anh. Tôi nghĩ là anh nên nghe đi.”
Patrik nhanh chóng ăn nốt que kem Magnum và đi vào trong. Anh nhấc
ống nghe trên bàn Gösta và có chút ngạc nhiên khi biết đó là ai. Sau cuộc
trao đổi ngắn, anh ghi lại vài điều, rồi gác máy. Anh nói với Gösta, ông
đang ngồi tại chỗ quan sát anh, “Ông nghe rồi đấy, có ai đó đã đập vỡ các
của sổ của nhà Gabriel Hult. Ông có muốn đến đó xem qua không?”
Gösta có vẻ ngạc nhiên khi Patrik hỏi mình thay vì Martin, nhưng ông
cũng gật đầu.
Vài phút sau đó, khi đã lái xe đến nơi, họ không thể kìm được những
tiếng thở dài ghen tị. Dinh thự Gabriel Hult sống thực sự tráng lệ. Nó lung
linh như một viên trân châu ở giữa xanh tươi, và hàng cây tổng quán sủi
ven đường dẫn vào nhà ngoan ngoãn cúi rạp trong gió. Patrik nghĩ rằng
Ephraim Hult hẳn phải là một nhà thuyết giáo thiên tài thì mới được huy
hoàng đến vậy.
Đến tiếng sỏi lạo xạo dưới chân khi họ bước tới bậc thềm nghe cũng có
vẻ sang trọng. Anh rất tò mò muốn xem phần bên trong của ngôi nhà.
Gabriel đích thân ra mở cửa. Cả Patrik và Gösta đều chùi chân cẩn thận
trên tấm thảm ở cửa trước khi bước vào tiền sảnh.