lận, thì người quan sát đó sẽ không muốn trừng phạt ai cả. Theo như
các nhà tâm lý học Jeffrey Stevens và Marc Hauser, tác giả của
nghiên cứu trên, điều này thể hiện rằng sự phản bội không được coi
là vi phạm thông lệ nếu cả hai bên cùng phản bội, trong khi sự phản
bội đơn phương lại được coi là xứng đáng với sự trừng phạt nghiêm
khắc.
Hành vi ngoài đời thực của chúng ta phản ánh điều những người
tham gia vào các thí nghiệm tình huống này đã làm. Bằng chứng ở
đây là nhiều thông lệ xã hội được duy trì bằng sự hợp tác có điều
kiện – nói cách khác, chúng ta sẽ hợp tác để duy trì thông lệ (chẳng
hạn thông qua sự trừng phạt của bên thứ ba) nếu phần lớn mọi
người khác đều làm, nhưng nếu có quá nhiều người phá vỡ thông
lệ, thì chúng ta cũng cảm thấy hoàn toàn thoải mái khi phá vỡ thông
lệ mà không bị sợ hãi về sự trừng phạt – từ bên thứ ba hoặc bên nào
đó khác. Khi đổ rác ra đường hoặc khi gian lận thuế thu nhập, chúng
ta tự nhủ: “Ai cũng làm thế, vậy thì sao mình lại không chứ?” Kết
quả cuối cùng là sự đổ vỡ của thông lệ xã hội đó.
Stevens và Hauser nói: “Thông lệ xã hội về hợp tác có điều kiện
mang lại một cơ chế sánh ngang với chiến lược trả đũa nổi tiếng”.
Đó là vì nó gắn với trả đũa gián tiếp, theo đó chiến lược trả đũa
của Bà Làm sao chịu vậy có thể mở rộng ra cả một cộng đồng vì một
cá nhân có thể thực hiện hành vi trả đũa đối với sự xâm phạm thông
lệ xã hội nhân danh cộng đồng, dù bản thân họ không trực tiếp bị
ả
nh hưởng.
Cách thiết lập và duy trì thông lệ xã hội gián tiếp chỉ áp dụng
cho con người, bởi nó đòi hỏi các thành tố tâm lý kết hợp lại mà chỉ
con người mới có. Stevens và Hauser đã xác định những thành tố cụ
thể đó: khả năng định lượng (phần thưởng hoặc sự trừng phạt), thời
gian ước lượng (để mối đe dọa trừng phạt không giảm quá mức), khả