đường về. Còn ả gà mái, dễ thường ốm bệnh nhớ: nó nằm liệt
giữa bụi cây sói mà kêu ai oán. Rồi được đâu có vài hôm, một buổi
sáng, tôi mở cửa chuồng chỉ thấy có một nhách gà trống lò dò đi
ra. Còn gà mái nằm chết còng queo dưới bục gỗ. Người ta đem
ném xác con gà chết ra đồng và từ hôm ấy, anh gà trống còn lại
sống lủi thủi một mình.
Nó là một giống gà ri, thấp bé và nhỏ nhắn hơn giống gà
thường. Nó còn nhỏ chưa vỡ lông vỡ cánh mà ủ rũ như một người
buồn, cho nên trông càng ái ngại. Lông cánh nó màu xám xịt. Cái
mào nhu nhú tái ngoét ở trên đôi mắt lờ đờ mà lúc nào cũng muốn
nhắm. Hai cái chân nhỏ quá, thấp quá, xám đen lại luôn luôn run
rẩy như sắp ngã quỵ, như không chịu được thời tiết, dù đấy là
thời tiết đầm ấm của những ngày mùa xuân. Nên khi nó đứng ở
một góc sân kia, Cu Lặc ném từng nắm thóc ở đằng này cho ngan,
cho ngỗng ăn mà nó cũng không buồn chạy lại. Nó ngẩn ra nhìn lũ
ngan con bước đi líu tíu.
Những con ngan nhỏ mới được ba hôm, chỉ to hơn cái trứng một
ít. Chúng có bộ lông vàng óng - một màu vàng đáng yêu - như màu
những con tơ nõn mới guồng. Nhưng đẹp nhất là đôi mắt và cái
mỏ. Đôi mắt chỉ bằng hột cườm, đen nhánh hạt huyền, lúc nào
cũng long lanh đưa đi đưa lại như có nước, làm hoạt động hai con
ngươi bóng mỡ. Một cái mỏ màu nhung hươu vừa bằng ngón tay
đứa bé mới đẻ và có lẽ cũng mềm thư thế, mọc ngăn ngắn đằng
trước. Cái đầu xinh xinh vàng nuỗn và ở dưới lũn chũn hai cái chân
bé tí màu hồng. Chúng nó chỉ líp chíp khe khẽ và lẩn quẩn dưới
chân mẹ. Mụ ngan mẹ, lờ đờ như một người đàn bà đụn và hiền,
lúc nào cũng mải nghĩ ngợi một điều gì ở tận đâu đâu. Thỉnh