hu hu. Người đàn ông bỏ đi. Nhưng đến chiều họ lại ăn cơm với
nhau như thường. Và họ lại cùng cười hề hề.
Song không thể còn yêu được nữa. Cái thói đánh nhau như đã
thành tính và thành lệ. Không mấy ngày họ không réo năm đời
mười đời nhau, cho ông bà ông vải của nhau ăn toàn những của
ngon vật hiếm và để kết liễu cuộc đấu khẩu, họ thụi nhau từng
trận cật lực. Sức vóc cùng tương đương cả, nên không ai hề gì.
Một buổi chiều nọ, vợ Lặc ở nhà chủ về. Buổi sáng hai vợ
chồng đã đánh nhau to lắm. Mụ về nhà gói ghém quần áo, đội
nón và bỏ cả đôi guốc mộc vào bọc cẩn thận. Rồi mụ đánh lên một
que diêm. Que diêm xòe lên thì mụ tiếp vào một bó đóm. Cái mặt rỗ
của mụ quặm lại, nom đến ghê. Mụ châm liền bó đóm ấy vào mái
bếp, về phía trong. Lửa đỏ bùng lên và cháy lên.
Mụ cắp nón đi mất.
Lúc ngọn lửa bốc cao gần bằng ngọn tre mới có người biết.
Người ta chạy dồn cả đến. Nhưng khi trông thấy lửa hoành hành
ở
một cái nhà chơ vơ giữa bãi hoang thì không ai xô vào chữa.
Người ta lại nhăn răng ra cười.
Mãi sau cu Lặc mới hay tin. Hắn hộc tốc chạy về. Thì nhà của
hắn chỉ còn là một đống than hãy còn hồng rực và còn ba cây đu
đủ chảy đỏ hắt, chong chỏng giữa sân. Hắn đứng chắp hai tay sau
lưng, tần ngần nhìn đám khói đen.
Rồi Lặc huỳnh huỵch chạy đến nhà bà hương Khoai tìm vợ.
(Tội nghiệp, hắn chẳng biết gì hết). Người ta bảo vợ hắn về từ
lâu. Hắn liền cầm một chiếc gậy tre lớn, đi lùng vợ khắp bốn
xóm trong làng Nghĩa Đô. Nhưng không thấy mụ đâu cả. Đến tận