Một năm, đói kém quá. Hàng lụa ế đến nỗi ai đặt chân vào làng
Nghĩa Đô đều thấy vắng tanh, không nghe tiếng một con thoi
chạy. Nhà tôi cũng phải nghỉ dệt lụa.
Lặc không còn việc gì để làm. Ngày kia, hắn bỏ đi đâu mất.
Không có ai biết. Được ít lâu, có kẻ nói là nghe phong thanh thấy
người ta đồn cu Lặc đã nhập với bọn phu mộ sang Tân thế giới
làm ăn.
Ba năm sau, vào khoảng tháng Hai, gia đình tôi nhận được một lá
thư xa. Ngoài bì thư có đóng dấu ở Thủ Dầu Một, Nam kỳ. Thư
như sau:
Dầu Tiếng le 8 tháng Giêng,
Tên con là Lặc. Hôm nay là tháng Giêng năm mới, con có lời về
mừng hai cụ, ông bà cùng các cậu, năm mới đều được phát tài
bằng năm bằng mười năm ngoái. Con ở bên này lấy điều làm
mừng lắm lắm. Từ ngày con ra đi làm ăn xa xôi, nhờ ơn thiên địa
giời đất vẫn cũng được như thường.
Thư bất tận ngôn.
Bấy nhiêu chữ viết bằng mực tím nhòe nhoẹt bò cao thấp,
lổm ngổm vừa kín cả một mảnh giấy con, dính đen sạm những
chất nhờn của mồ hôi tay. Không thấy đề rõ chỗ ở. Dáng hẳn
Lặc ta nhờ mãi, nói khó mãi mới có được một ông bạn tốt bụng
viết cho ngần ấy chữ quý hóa.
Nghĩa Đô 1941