NQS
Khảo Luận Về Ông Phan Thanh Giản
Chương 16
Tại sao phải đưa ra 3 bản định ước năm Nhâm Tuất (1862) từ 3 nguồn
thư tịch khác nhau?
Thực ra thì phải nói là có 5 bản định ước năm Nhâm Tuất (1862) mới hợp
lý bởi vì ở đây còn thiếu 2 bản định ước chính gốc: một do chính quyền
nước Pháp lưu giữ và một do chính quyền Đại Nam lưu giữ. Hai bản gốc
nầy có thể được viết bằng 2 loại chữ viết Pháp-Hán và bản văn chữ Hán có
thể đã được đưa vào ĐNTLCB. Cũng có thể là định ước nầy chỉ được viết
bằng Pháp ngữ và 12 khoản kê ra trong ĐNTLCB chỉ là phần dịch thuật từ
bản văn chữ Pháp hoặc là đã được viết lại trong ĐNTLCB theo lời báo cáo
hay phúc trình của phái đoàn nghị ước Phan Thanh Giản - Lâm Duy Hiệp.
Bản văn của tác giả Lê Thanh Cảnh kê khai 12 điều khoản của định ước
năm Nhâm Tuất có thể đã phỏng theo những kê khai trong ĐNTLCB viết
bằng chữ Hán để viết lại bằng chữ Pháp đăng lên tập chí Đô Thành Hiếu
Cổ Tập San vào năm 1937. NQS dùng chữ Kê Khai bởi vì trong ĐNTLCB
không có đánh số rõ ràng từ điều khoản số 1 đến điều khoản số 12 nhưng
trong bản văn bằng chữ Pháp của tác giả người Việt Nam Lê Thanh Cảnh
lại có đánh số từng điều khoản, từ số 1 đế số 12. Hoặc là tác giả Lê Thanh
Cảnh đã dựa vào một bản định ước bằng chữ Hán mà trong đó có đánh số
những điều khoản từ số 1 đến số 12?
Vào thời điểm năm 1937 tức là vào lúc Lê Thanh Cảnh viết một loạt bài
bằng tiếng Pháp đăng trên Đô Thành Hiếu Cổ Tập San thì những người
Pháp chính gốc và những người Việt Nam theo Tây học như Lê Thanh
Cảnh nhất định là đã có thể đọc được bản định ước năm Nhâm Tuất với bản
văn chữ Pháp đã có từ năm 1862 chứ không phải đợi cho đến khi có những
bài viết bằng Pháp văn của tác giả Lê Thanh Cảnh thì họ mới biết được nội
dung của 12 điều khoản trong định ước đó.
Câu hỏi đặt ra: chắc gì những người Pháp hoặc những người Việt Nam như
Lê Thanh Cảnh có thể tìm ra được bản gốc hay bản sao y chính bản định
ước năm Nhâm Tuất?