tăng giá của giai đoạn 2000-2006, gây ra bởi cho vay dưới chuẩn, cho vay Alt-A,
những khoản cho vay lớn và do đó, cũng đánh giá thấp sự giảm sút của giá nhà đất.
Ngược lại, chỉ số Case-Shiller (ở đây là chỉ số toàn quốc tính theo quý) lại đánh giá
quá cao cả việc tăng và giảm giá. Chỉ số Case-Shiller đánh giá thấp tỉ trọng của khu
vực Trung Mỹ, đặc biệt là những vùng ngoại ô và những thị xã nhỏ. Đồng thời, họ
đánh giá mức độ ảnh hưởng theo giá trị, do đó việc bùng nổ và bong bóng vỡ ở thị
trường tài sản cao cấp ở California, Florida và một số vùng khác của Đông Bắc có
ảnh hưởng lớn hơn. Nhìn chung, dường như mức độ tăng và giảm giá nhà đất đều
gần với mức ước tính của Case-Shiller hơn là mức ước tính của Chính phủ.
. John Krainer, “Bong bóng nhà đất”, Economic Letter , số 200306, ngày
7/3/2003, Cục dự trữ San Francisco. Bài nghiên cứu xem xét chỉ số giá nhà so với
giá thuê nhà và nhận thấy rằng chúng đã được định giá quá cao, bình quân khoảng
11%, tính đến Quý III năm 2002. Con số này cao hơn một chút so với con số ước
tính của Ngân hàng Trung ương Tây Ban Nha trong chương 5. Nhưng với xu hướng
tăng giá nhà và giá thuê nhà từ thời điểm đó, tôi ước tính rằng chúng sẽ được định
giá cao hơn thực tế 40% tính đến giữa năm 2006. Lưu ý rằng chỉ số giá nhà đất ở
trong hầu hết các nghên cứu và cả trong nghiên cứu này đều từ Phòng Tài chính nhà
đất Liên bang (FHFA, trước đây gọi là OFHEO). Xem thêm thông tin trên trang web
www.fhfa.gov.
. Marc Labonte, Giá nhà đất ở New York: Liệu có phải bong bóng đang diễn
ra?, Báo cáo gửi Quốc hội, 16/3/2003.
. Kenneth Harney, “Nhà đất toàn quốc: nghiên cứu cho thấy những người thẩm
định bị ép phải định giá cao”, Detroit Free Press, 14/09/2003.