nhiên, do có lạm phát, các cổ phiếu đã giảm giá sàn trong khoảng giữa tháng 8/1987
và tháng 2/1991. Và nhà đầu tư trái phiếu hoặc tiền mặt vẫn có lợi nhuận cao hơn
cho đến năm 1993. Lưu ý rằng đôi khi hệ số P/E cũng lớn hơn 20, vì thu nhập đã bị
giảm sút bởi suy giảm kinh tế và các nhà đầu tư đang mong chờ một sự hồi phục, ví
dụ như thời kỳ 1992-1993 và năm 2003.
. Tham khảo DOW 36000: chiến lược mới để thu lợi từ việc thị trường chứng
khoán đi lên (DOW 36000: The New Strategy for Profiting from the Coming Rise in
the Stock Market) của James K. Glassman và Kevin A. Hassett,Times Books, năm
1999.
. Tham khảo lời giới thiệu trong tác phẩm của John Calverley, Hướng dẫn cơ
bản cho nhà đầu tư (Investors Guide to Economic Fundamentals), John Wiley, năm
2003.
. Tham khảo Sách thiên niên kỷ II: 101 năm của lợi nhuận đầu tư (Millennium
Book II: 101 Years of Investment Returns) của Elroy Dimson, Paul Marsh và Mike
Staunton, Trường Kinh doanh London và ABN AMRO, năm 2001.
. Tham khảo Phần bù rủi ro nào là bình thường? (What risk premium is
normal?) của Robert D. Arnott và Peter L. Bernstein, AIMR , tháng 3-4/2002, trang
75–8, đề cập đến một nghiên cứu về vấn đề này.
. Trái phiếu công ty Mỹ (và trái phiếu công ty của nhiều nước khác) được xếp
hạng bởi các tổ chức xếp hạng lớn (bao gồm Moodys, Standard and Poors và Fitch).
Trái phiếu chính phủ cũng như các tài sản khu vực tư nhân tốt được xếp hạng AAA,
sau đó rủi ro tăng theo từng nấc AA, A, đến BBB–, tất cả được xem là “xếp hạng
đầu tư” (investment grade).Từ BB+ xuống đến B được xem là “xếp hạng đầu cơ”
(speculative grade).
. Standard & Poors, Rating Performance 2001 , tháng 2/2002.
. Tôi đã bỏ qua thiệt hại về lãi suất nếu trái phiếu vỡ nợ sớm trong khoảng thời
gian 10 năm. Nếu chúng ta lấy ví dụ cực đoan là khi 5,3% tích lũy vỡ nợ diễn ra vào
một ngày sau khi mua vào, thì thiệt hại về lãi suất sẽ làm giảm lợi nhuận, với mức
chênh lệch phụ thuộc vào mức lãi suất chung. Với mức lãi suất 6%, mức thiệt hại sẽ
tăng thêm 2,4%.
. Tham khảo Phần bù rủi ro vốn đầu tư: Một câu đố (The equity risk premium:
A puzzle) của R. Mehra và E. C. Prescott, Journal of Monetary Economics, số 15,