cái vỏ sò đóng kín. Nhưng Saunière có thể dễ dàng
phát hiện có một bức tranh vào thời Bigou, của Juan
De Valdés Leal.
“Tôi cho rằng bức tranh vẫn còn ở trong đó chứ?”
Malone hỏi, nhìn chằm chằm qua cái sân rộng lớn về
phía Chapeaux Galo, cổng chính của cung điện.
Claridon lắc đầu. “Mất lâu rồi. Bị lửa đốt cách đây
đã năm mươi năm.”
Lại có tiếng sấm vẳng đến.
“Tại sao chúng ta lại ở đây?” Stephanie hỏi.
Malone đặt mấy đồng euro lên bàn và để cái nhìn
của mình chú mục vào một quán cà phê ngoài trời
khác cách đó vài cánh cửa. Trong khi những người
khác đang vội vã rời quán để tránh cơn bão sắp đến,
một người phụ nữ ngồi dưới một cái dù và chậm rãi
uống nước. Cái nhìn của anh chỉ thoáng qua, nhưng
cũng đủ để anh ghi nhớ những đường nét sắc và đôi
mắt sáng. Làn da của cô có màu cà phê, dáng vẻ mềm
mại khi một người phục vụ mang đồ ăn đến bàn cho
cô. Anh đã để ý được mười phút, khi họ mới ngồi
xuống, và anh đã tự hỏi.
Giờ là lúc thử nghiệm. Anh lấy một tờ giấy ăn từ
trên bàn và quấn nó quanh bàn tay nắm lại của mình.
“Trong cái bản thảo chưa bao giờ xuất bản đó,”
Claridon đang nói, “Noel Corbu mà tôi đã nói, người
viết về Saunière và Rennes, mà Lars đã tìm được,
Corbu nói về bức tranh và biết Bigou dẫn chiếu đến
nó trong sổ sách của giáo khu. Corbu cũng ghi lại
rằng một bức tranh chép vẫn còn ở trong kho lưu trữ
của cung điện. Ông ta đã nhìn thấy nó. Trong cái tuần
trước khi chết, cuối cùng Lars đã biết được nó nằm ở
đâu trong kho lưu trữ. Lẽ ra chúng tôi phải vào trong