nét không còn, cái mũi đã mòn đi gần hết, hai hốc
mắt đen thui và không còn thần sắc. Trên đầu là một
con nhân sư. Phía dưới là một bệ đá với ba cái búa.
“Đó là một Hiệp sĩ,” Mark nói. “Tôi đã nhìn thấy
một cái giống thế này ở gần tu viện của chúng tôi.”
“Sao lại có ở đây?” Malone hỏi.
“Người Catalan sống trong vùng vào thế kỷ mười
bốn không hề thích thú gì vua Pháp, ở đây các Hiệp
sĩ Đền thờ sống thân thiện với người dân, ngay cả sau
thời kỳ Thanh Trừng. Đó là một lý do khiến nơi này
được chọn làm chỗ trú ẩn.”
Những bức tường xốp vươn cao lên một cái trần
hình tròn. Những bức tranh tường chắc chắn đã từng
có thời vẽ rất nhiều thứ, nhưng giờ gần như không
còn lại gì. Nước rỏ qua những kẽ đá từ lâu đã bào
mòn các tác phẩm nghệ thuật.
“Đây là một cái hầm,” Stephanie nói.
“Hơn thế nữa còn là một pháo đài,” Cassiopeia lên
tiếng. “Rất có thể đây là phòng tuyến bảo vệ cuối
cùng của tu viện khi bị tấn công.”
Malone cũng nghĩ vậy. “Nhưng có một vấn đề.”
Anh chỉ ra vùng xung quanh mờ tối. “Không có lối
thoát ra.”
Thêm một cái gì đó nữa khiến anh chú ý. Anh bước
lại gần và nhìn chăm chú lên tường, phần lớn có màu
hồng trong bóng bối. Nhìn không rõ. “Giá như mà có
đèn chiếu nhỉ.”
Những người khác bước lại gần.
Ở độ cao mười feet, anh nhìn thấy những nét chữ
được khắc sâu vào tảng đá màu ghi.
“P, R, N, V, I, R,” anh đọc.
“Không,” Cassiopeia nói. “Còn có mấy chữ nữa.