vụ mang đồ ăn đến bàn cho cô. Anh đã để ý được mười phút, khi họ mới
ngồi xuống, và anh đã tự hỏi.
Giờ là lúc thử nghiệm. Anh lấy một tờ giấy ăn từ trên bàn và quấn nó
quanh bàn tay nắm lại của mình.
“Trong cái bản thảo chưa bao giờ xuất bản đó,” Claridon đang nói,
“Noel Corbu mà tôi đã nói, người viết về Saunière và Rennes, mà Lars đã
tìm được, Corbu nói về bức tranh và biết Bigou dẫn chiếu đến nó trong sổ
sách của giáo khu. Corbu cũng ghi lại rằng một bức tranh chép vẫn còn ở
trong kho lưu trữ của cung điện. Ông ta đã nhìn thấy nó. Trong cái tuần
trước khi chết, cuối cùng Lars đã biết được nó nằm ở đâu trong kho lưu trữ.
Lẽ ra chúng tôi phải vào trong đó để xem xét, nhưng Lars không bao giờ
quay trở lại Avignon cả.”
“Và ông ấy không nói cho ông là nó ở đâu à?” Malone hỏi.
“Không, thưa ông.”
“Trong quyển nhật ký không có lời nào viết về bức tranh cả.” Malone
nói. “Tôi đã đọc cả rồi. Không có từ nào về Avignon hết.”
“Nếu Lars không nói cho ông bức tranh đó ở đâu, thì tại sao ông vẫn
muốn vào trong đó?” Stephanie hỏi. “Ông không hề biết là phải tìm ở đâu.”
“Nhưng con trai bà thì có đấy, vào ngày trước khi cậu ấy chết. Cậu ấy và
tôi lẽ ra cũng phải vào bên trong cung điện để tìm, ngay sau khi cậu ấy từ
vùng núi trở về. Nhưng, thưa bà, như bà cũng đã biết...”
“Nó cũng không bao giờ trở về cả.”
Malone thấy rõ là Stephanie đang cố gắng đè nén cảm xúc của mình. Bà
rất giỏi, nhưng không giỏi được đến mức đó. “Tại sao ông không đi?”
“Tôi nghĩ rằng sống được là điều quan trọng nhất. Vì vậy tôi đã trốn vào
trại điên.”
“Cậu ấy chết trong một vụ lở tuyết,” Malone nói rõ. “Cậu ấy không bị
giết.”
“Anh không biết rồi. Trên thực tế,” Claridon nói, “anh không biết gì cả.”
Ông nhìn quanh quảng trường. “Chúng ta phải nhanh chân lên. Sắp đến
tour cuối cùng rồi. Phần lớn người làm ở đây là cư dân lớn tuổi của thành
phố. Nhiều người tình nguyện. Đến bảy giờ là họ đóng cửa nhanh lắm.