chuyện với nhau. Cuối cùng, con đã đồng ý ở lại và tuyên thệ!”
“Tại sao con có thể làm được chuyện đó?” Stephanie hỏi.
“Thử thực tế một chút nào, mẹ. Mẹ và con đã không nói chuyện hàng
năm nay rồi. Bố thì đã chết. Trưởng giáo nói đúng. Con đã lâm vào ngõ cụt.
Bố tìm kiếm kho báu của Đền thờ, tư liệu của họ, và bản thân các Hiệp sĩ.
Một phần ba những gì ông ấy tìm kiếm đã tự đến tìm con. Con muốn ở lại.”
Để tự trấn tĩnh lại, Stephanie để mặc cho sự chú ý của mình hướng vào
chàng trai trẻ tuổi đứng sau lưng Mark. Một vầng hào quang của sự tươi trẻ
bao quanh anh, nhưng bà cũng nhận thấy sự quan tâm, như thể đây là lần
đầu tiên anh được nghe câu chuyện này. “Tên anh là Geoffrey?” Bà hỏi,
nhớ đến cái tên Mark đã gọi một lúc trước.
Anh gật đầu.
“Anh không biết tôi là mẹ của Mark?”
“Tôi biết rất ít về các giáo hữu khác. Giới luật quy định như vậy. Không
giáo hữu nào nói về bản thân mình với người khác. Chúng tôi là một giáo
đoàn. Việc chúng tôi từ đâu đến không có gì liên quan đến chúng tôi là ai
hiện nay.”
“Nghe có vẻ về nhân xưng nhỉ.”
“Tôi nghĩ rằng điều đó hết sức hợp lý.”
“Geoffrey đã gửi cho mẹ một cái gói qua đường bưu điện,” Mark nói.
“Quyển nhật ký của bố. Mẹ có nhận được không?”
“Chính vì thế mà mẹ có mặt ở đây.”
“Con cầm theo nó trong ngày tuyết lở. Trưởng giáo giữ nó khi con trở
thành một giáo hữu. Con phát hiện là nó đã biến mất sau khi ông ấy chết.”
“Trưởng giáo của cậu chết rồi à?” Malone hỏi.
“Bọn con có một người chủ mới,” Mark nói. “Nhưng đó là một con
quỷ.”
Malone miêu tả gã đàn ông đã đối đầu với anh và Stephanie trong nhà
thờ lớn Roskilde.
“Đó là Raymonde De Roquefort,” Mark nói. “Làm sao mà hai người
biết hắn?”
“Chúng tôi là bạn lâu năm,” Malone nói, rồi kể lại một số chuyện xảy ra